Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Trần Chí Cường phát biểu tại buổi làm việc.
Kết quả chưa như kỳ vọng, thiếu tính bền vững
Theo báo cáo của Sở Công Thương, trên địa bàn Đà Nẵng hiện có 44 dự án thủy điện với tổng công suất thiết kế 1.784,31 MW. Sản lượng điện trung bình năm theo thiết kế đạt hơn 6,23 tỷ kWh. Trong số này, 34 nhà máy đã vận hành phát điện, 6 công trình đang thi công và 4 dự án đang hoàn thiện thủ tục đầu tư. Các dự án thủy điện phân bố tại 31 xã, chủ yếu ở khu vực miền núi, nơi đời sống người dân còn nhiều khó khăn.
Thời gian qua, UBND tỉnh Quảng Nam trước đây và nay là TP Đà Nẵng đã quan tâm, chỉ đạo triển khai Chương trình sinh kế cho người dân vùng lưu vực hồ chứa thủy điện. Chương trình bước đầu tạo được sự đồng thuận trong hệ thống chính trị, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Nhiều mô hình sinh kế đã được triển khai, tập trung vào trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và từng bước định hướng phát triển du lịch.
Trong lĩnh vực trồng trọt và lâm nghiệp, các địa phương triển khai nhiều mô hình như trồng cây dổi lấy hạt, quế Yên Bái, tre điền trúc lấy măng, cây lát hoa, sắn, nghệ vàng, cây ăn quả và cây dược liệu. Một số địa phương tổ chức khoanh nuôi, bảo vệ rừng tre nứa. Nhiều mô hình cho thấy hiệu quả bước đầu, phù hợp điều kiện tự nhiên và được người dân hưởng ứng. Ở lĩnh vực chăn nuôi, các mô hình nuôi bò cái sinh sản, nuôi heo cỏ, nuôi ngan địa phương đã góp phần tạo sinh kế, cải thiện thu nhập cho người dân. Trong lĩnh vực thủy sản, chương trình tập trung thả cá giống và nuôi cá lồng bè trên các hồ thủy điện như A Vương, Sông Tranh 2, Đak Mi 4, Sông Bung 2 và Sông Bung 4. Bên cạnh đó, ngành văn hóa và du lịch đã tiến hành khảo sát, đánh giá tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với lòng hồ thủy điện. Các giá trị văn hóa bản địa, làng nghề truyền thống cũng được xem xét lồng ghép nhằm tạo thêm sinh kế cho người dân.
Đến nay, chương trình đã triển khai tại 12 xã với nhiều mô hình sinh kế được xác định theo hướng bền vững hơn. Việc lựa chọn mô hình ngày càng chú trọng yếu tố lâu dài, phù hợp điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất và định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp. Một số mô hình bước đầu mang lại thu nhập, tạo việc làm, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giảm áp lực lên tài nguyên rừng, đồng thời cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân vùng lưu vực hồ thủy điện.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa như mong đợi và thiếu tính bền vững. Theo đại diện lãnh đạo xã Bến Hiên, thời gian qua địa phương được hỗ trợ hơn 800 triệu đồng để thực hiện các nội dung sinh kế. Mức hỗ trợ này vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế. Từ năm 2023 đến nay, thông qua việc lồng ghép các chương trình, dự án khác, địa phương đã huy động được hơn 10 tỷ đồng hỗ trợ sinh kế cho người dân các xã cũ trên địa bàn. Dù vậy, quá trình triển khai vẫn gặp nhiều khó khăn. Việc tổ chức thực hiện chương trình ở một số nơi chưa bài bản, thiếu kế hoạch tổng thể theo từng giai đoạn và từng năm. Mức hỗ trợ cụ thể chưa được xác định rõ khiến địa phương lúng túng trong xây dựng phương án triển khai và vận động người dân lựa chọn mô hình phù hợp. Một số nguồn hỗ trợ được bố trí vào cuối năm, gây bị động trong tổ chức thực hiện. Mức hỗ trợ nhìn chung còn thấp trong khi đối tượng thụ hưởng chủ yếu là hộ nghèo và cận nghèo. Nhiều hộ thiếu vốn đối ứng nên khó triển khai các mô hình có quy mô lớn và tính bền vững. Bên cạnh đó, các vướng mắc về đất đai, sản xuất manh mún, thiếu liên kết tiêu thụ và đầu ra không ổn định cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sinh kế lâu dài.
Thực trạng này cũng được nhiều xã trong lưu vực hồ chứa thủy điện phản ánh. Đó là công tác triển khai ở một số nơi còn thiếu quyết liệt. Sự phối hợp giữa địa phương và các đơn vị thủy điện chưa đồng bộ. Việc hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao khoa học công nghệ còn hạn chế. Một số mô hình có thời gian thực hiện dài nhưng thiếu nguồn lực hỗ trợ trong giai đoạn chờ thu hoạch. Điều kiện hạ tầng khó khăn khiến sản xuất còn nhỏ lẻ và khó nhân rộng. Đáng chú ý, vẫn còn đơn vị thủy điện chưa tích cực tham gia hỗ trợ sinh kế cho người dân. Trong khi đó, cơ chế, chính sách và nguồn vốn riêng dành cho chương trình sinh kế còn hạn chế. Từ thực tế này, các địa phương kiến nghị UBND thành phố rà soát, đánh giá toàn diện những tồn tại, hạn chế để làm cơ sở xây dựng chính sách sinh kế cho giai đoạn 2026–2030.
Công ty Thủy điện Sông Tranh hỗ trợ 95 triệu đồng để UBND xã Trà Đốc sửa chữa nhà hư hỏng, dột nát cho hộ nghèo, hộ bị thiệt hại do thiên tai.
Doanh nghiệp đừng nghĩ là làm từ thiện, đó là trách nhiệm!
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Trần Chí Cường đánh giá chương trình sinh kế thời gian qua đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng chưa đáp ứng kỳ vọng. Lãnh đạo thành phố đề nghị Sở Công Thương phối hợp với các địa phương rà soát, đánh giá cụ thể và chi tiết từng mô hình đã triển khai. Trên cơ sở đó, xác định rõ các mô hình hiệu quả để nhân rộng trong thời gian tới. Ông Trần Chí Cường nhấn mạnh việc xây dựng mô hình sinh kế phải đặt yếu tố phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, khí hậu và tập quán sản xuất của người dân lên hàng đầu. “Thực tế cho thấy, nếu mô hình không phù hợp với tập quán sản xuất và đời sống của người dân thì khó có thể duy trì, nhân rộng, dù nguồn lực đầu tư lớn. Do đó, sự phù hợp phải được đặt lên hàng đầu, tránh áp đặt theo tư duy chủ quan hoặc mô hình sao chép máy móc”.
Phó Chủ tịch UBND TP cũng chỉ ra những hạn chế trong công tác tuyên truyền, lồng ghép chương trình, hỗ trợ kỹ thuật, đặc biệt là kiểm tra, giám sát. Việc đánh giá mô hình cần dựa vào mức độ hài lòng, sự chủ động và mong muốn gắn bó lâu dài của người dân. Không nên chỉ nhìn vào các chỉ số kỹ thuật hay sản lượng. Thực tế cho thấy, ở đâu lãnh đạo địa phương quan tâm và chỉ đạo quyết liệt thì ở đó mô hình sinh kế phát triển hiệu quả hơn.
Đồng bào Xơ Đăng ở Nam Trà My phát triển sâm Ngọc Linh dưới tán rừng nguyên sinh.
Đối với các doanh nghiệp thủy điện, ông Trần Chí Cường nhấn mạnh: “Tham gia chương trình sinh kế không nên nhìn nhận là hoạt động từ thiện, ban phát mà là trách nhiệm xã hội trong phát triển kinh tế bền vững, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và cộng đồng. Đó là sự tri ân người dân đã nhường đất, nhà cửa, nhường rừng, chịu tác động trực tiếp và gián tiếp từ các dự án thủy điện, nên việc hỗ trợ sinh kế là cần thiết, lâu dài”. Trong thời gian tới, chương trình sinh kế cần chuyển từ hỗ trợ đơn thuần sang “dạy cách làm ăn”. Các mô hình cần được xây dựng theo lộ trình rõ ràng, có phân kỳ hỗ trợ cụ thể và kết hợp nhiều nguồn lực. Thành phố định hướng nghiên cứu cơ chế gắn trách nhiệm cụ thể của từng nhà máy thủy điện với từng xã, bảo đảm sự đồng hành lâu dài, có địa chỉ rõ ràng và được đánh giá cụ thể.
“Trên tinh thần đó, Sở Công Thương được giao tiếp tục chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng các sở, ngành liên quan xây dựng chương trình sinh kế giai đoạn 2026–2030. Sau khi chương trình được ban hành, việc tổ chức triển khai và theo dõi, đánh giá sẽ giao cho Sở Nông nghiệp và Môi trường, bảo đảm tính liên tục, đồng bộ và hiệu quả”- ông Trần Chí Cường kết luận.
Xuân Tiến