Sở GD&ĐT Hải Phòng nêu một số kiến nghị để nâng cao chất lượng giáo dục

Sở GD&ĐT Hải Phòng nêu một số kiến nghị để nâng cao chất lượng giáo dục
10 giờ trướcBài gốc
Trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và sáp nhập tỉnh thành, ngành giáo dục và đào tạo trên cả nước hiện đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức.
Tại Hải Phòng, sau khi sáp nhập tỉnh, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố; sự phối hợp của các sở, ngành, địa phương; cùng với nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, ngành giáo dục và đào tạo thành phố quyết tâm hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, giữ vững đà phát triển và vị thế trong hệ thống giáo dục cả nước.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã có những chia sẻ về kế hoạch nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn mới.
Những kết quả đạt được trong năm học 2024-2025
Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, thành phố hiện có 1.608 cơ sở giáo dục (1.430 cơ sở giáo dục công lập, 178 cơ sở giáo dục tư thục); 8 trường đại học (6 trường công lập, 2 trường tư thục); 1.126 trung tâm ngoại ngữ, cơ sở ngoại ngữ, tin học, kỹ năng sống, hoạt động ngoài giờ chính khóa, Trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập, 159 trung tâm tư vấn du học ; 374 trung tâm học tập cộng đồng. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp có 75 cơ sở (34 cơ sở công lập, 41 cơ sở tư thục).
Toàn ngành có 67.561 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn theo Luật Giáo dục 2019: mầm non: 92,96%; tiểu học: 96,96%; trung học cơ sở: 96,91%; trung học phổ thông: 100%, giáo dục thường xuyên: 99,6%.
Tổng số học sinh là 1.053.272, trong đó: 231.279 trẻ mầm non, 348.980 học sinh tiểu học, 297.858 học sinh trung học cơ sở, 146.545 học sinh trung học phổ thông, 26.470 học sinh, học viên giáo dục thường xuyên. Số sinh viên, học viên theo học tại các cơ sở giáo dục đại học là 54.507. Số học sinh, sinh viên, học viên theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là 63.740.
Năm học 2024-2025, chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục nâng cao; giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống được chú trọng; thành tích học sinh giỏi quốc gia, quốc tế duy trì ở nhóm dẫn đầu. Triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đạt kết quả tốt, từ việc lựa chọn, cung ứng sách giáo khoa, biên soạn tài liệu giáo dục địa phương, đến đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra - đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
Ông Lương Văn Việt là Giám đốc Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng sau sáp nhập. Ảnh: Sở GD&ĐT Hải Dương
Hai kỳ thi quan trọng: tuyển sinh vào lớp 10 trung học phổ thông và tốt nghiệp trung học phổ thông được triển khai thống nhất trên toàn thành phố theo nguyên tắc “6 rõ”, với sự giám sát chặt chẽ của lực lượng công an, thanh tra và các đơn vị liên quan ở tất cả các khâu, từ in sao đề, coi thi, chấm thi đến công bố kết quả. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, thành phố Hải Phòng xếp thứ 6 toàn quốc với điểm trung bình 6,35, tiếp tục duy trì vị thế trong nhóm dẫn đầu về chất lượng đầu ra.
Công tác kiểm định chất lượng giáo dục được quan tâm chỉ đạo; tính đến hết năm học 2024-2025, toàn thành phố có 76,98% số trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, trong đó: mầm non 79,85%, tiểu học 78,74%, trung học cơ sở 76,85%, trung học phổ thông 72,5%.
Giáo dục nghề nghiệp phát triển gắn với nhu cầu thị trường lao động; giáo dục đại học duy trì ổn định, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế. Mạng lưới trường lớp phát triển hợp lý, bảo đảm cơ hội học tập thuận lợi cho học sinh ở tất cả các cấp học.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được tăng cường, đáp ứng yêu cầu đổi mới; xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, thu hút nguồn lực xã hội; hợp tác quốc tế có chuyển biến tích cực; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số triển khai đồng bộ trong quản lý, giảng dạy, kiểm tra - đánh giá.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao; công khai, minh bạch, cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh; trách nhiệm giải trình, vai trò người đứng đầu được đề cao; quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện nghiêm túc, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của ngành.
Tình trạng thiếu giáo viên chưa được giải quyết triệt để, vẫn còn một số khó khăn sau sáp nhập
Bên cạnh những thuận lợi, ngành giáo dục và đào tạo Hải Phòng còn đối mặt với một số khó khăn, thách thức. Trước hết là nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện; xã hội hóa còn hạn chế, ngành vẫn phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách công.
Tình trạng thiếu giáo viên, đặc biệt ở các môn học mới trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 chưa được xử lý dứt điểm; một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu cải cách giáo dục.
Việc trang bị cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giữa các địa phương còn chưa đồng đều. Công tác in ấn, phát hành tài liệu giáo dục địa phương của thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương trước hợp nhất còn gặp nhiều vướng mắc, chưa bảo đảm tiến độ, tính thống nhất và khả năng sử dụng hiệu quả trong nhà trường.
Việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về quỹ đất và nguồn vốn đầu tư; tỷ lệ trường đạt chuẩn mức độ 2 còn thấp, số trường hết hạn công nhận được đánh giá lại vẫn khiêm tốn.
Mô hình Trung tâm giáo dục thường xuyên Hải Phòng sau hợp nhất gặp khó khăn trong điều hành do số lượng điểm trường lớn, nhiều cơ sở trên 1.000 học viên, phân bố xa trung tâm. Việc xử lý tình huống, giải quyết thủ tục hành chính và phân công giảng dạy thiếu linh hoạt do phải chờ điều phối tập trung.
Đề án sắp xếp trường trung học cơ sở chất lượng cao mới triển khai tại phía Tây thành phố, phía Đông chưa thực hiện, gây thiếu đồng bộ trong phát triển giáo dục mũi nhọn.
Giáo dục nghề nghiệp vẫn còn bất cập: kết quả tuyển sinh chủ yếu tập trung ở các khóa đào tạo ngắn hạn dưới 3 tháng (chiếm 82%), trong khi tuyển sinh trình độ trung cấp và cao đẳng chỉ đạt 18% tổng số; cơ cấu ngành nghề mất cân đối, nhiều ngành có nhu cầu lao động cao và thu nhập tốt nhưng khó tuyển sinh như Hàn, Cắt gọt kim loại, Sơn tàu thủy, Công nghệ chế tạo vỏ tàu thủy…
Ảnh minh họa: Lã Tiến
Một số kiến nghị của Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng để nâng cao chất lượng giáo dục
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng giáo dục sau sáp nhập, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã có một số kiến nghị.
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đề xuất sớm ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà giáo (có hiệu lực từ ngày 01/01/2026), tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống giáo dục, góp phần khẳng định vị trí, vai trò và bảo đảm quyền lợi của đội ngũ nhà giáo.
Ban hành hướng dẫn cụ thể về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận trường đạt chuẩn quốc gia đối với các đơn vị sau sáp nhập, bảo đảm phù hợp tình hình thực tiễn địa phương. Hướng dẫn chi tiết triển khai Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT, đặc biệt, ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Bồi dưỡng kiến thức. Có hướng dẫn cụ thể trong việc quản lý hoạt động dạy thêm, học thêm.
Sửa đổi, hoàn thiện và ban hành các văn bản hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 19/2023/TT-BGDĐT và Thông tư số 20/2023/TT-BGDĐT theo hướng: quy định cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn về vị trí việc làm, định mức số lượng người làm việc, đặc biệt là cơ cấu giáo viên các môn lựa chọn ở cấp trung học phổ thông và các môn đặc thù như Công nghệ, Giáo dục kinh tế - pháp luật ở cấp trung học cơ sở.
Ban hành quy trình, hướng dẫn về việc xây dựng, thẩm định, kinh phí in ấn tài liệu giáo dục địa phương, tạo điều kiện cho các tỉnh, thành phố chủ động triển khai nội dung này theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.
Tiếp tục rà soát, cắt giảm thành phần hồ sơ không còn phù hợp trong thủ tục cấp bản sao văn bằng, chứng chỉ từ sổ gốc. Cụ thể, đề xuất bãi bỏ yêu cầu nộp bản chính hoặc bản sao có chứng thực giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân, căn cước công dân, hộ chiếu) đối với người dân đã thực hiện xác thực định danh qua VNeID. Chỉ duy trì yêu cầu xuất trình hộ chiếu còn hiệu lực đối với trường hợp không có căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân, nhằm giảm thiểu giấy tờ không cần thiết, phù hợp với chủ trương số hóa thủ tục hành chính và thực hiện định danh điện tử toàn dân.
Đồng thời, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành hướng dẫn chi tiết, có căn cứ pháp lý cụ thể về việc số hóa kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông các năm (trong điều kiện vẫn lưu trữ bản gốc dạng sổ) để tạo thuận lợi trong việc tra cứu, đối chiếu thông tin và cấp bản sao văn bằng, bảo đảm nhanh chóng, chính xác, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Chỉ đạo xây dựng hệ thống kết nối, khai thác đồng bộ dữ liệu tuyển sinh giữa hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, tránh trùng lặp, nâng cao hiệu quả quản lý. Ban hành hệ thống chuẩn đầu ra cho từng ngành nghề đào tạo làm căn cứ cho đánh giá, nghiệm thu chất lượng đào tạo, làm căn cứ đặt hàng đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội.
Đối với Thành ủy, Hội đồng nhân dân thành phố, tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018. Chú trọng đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực có thế mạnh gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá và đầu tư nguồn lực tương xứng để phát triển đại học vùng duyên hải Bắc Bộ.
Chỉ đạo rà soát, sắp xếp, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục bảo đảm đủ trường, lớp học, nhất là ở địa phương nơi tập trung dân số đông, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và của cả nước; phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện ở Việt Nam.
Xây dựng cơ chế thu hút đầu tư xã hội hóa, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo của thành phố, nhất là đối với giáo dục nghề kỹ thuật cao và giáo dục đại học…
Chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nghị quyết Hội đồng nhân dân thành phố về phát triển giáo dục và đào tạo. Quan tâm giải quyết những đề xuất, kiến nghị thông qua giám sát việc thực hiện các nghị quyết này, kịp thời điều chỉnh, bổ sung nghị quyết cho phù hợp thực tiễn.
Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng nỗ lực khắc phục khó khăn để nâng cao chất lượng. Ảnh minh họa: Lã Tiến
Đối với Ủy ban nhân dân thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đề xuất, về cơ chế tổ chức bộ máy và nhân sự: Nghiên cứu giao biên chế giáo viên theo năm học thay vì theo năm ngân sách nhằm bảo đảm ổn định đội ngũ, phù hợp đặc thù ngành giáo dục và đào tạo. Có cơ chế điều động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục cho các địa phương còn khó khăn. Phát triển, nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; bảo đảm đủ số lượng giáo viên theo định mức quy định.
Thực hiện sắp xếp, tổ chức lại hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố; việc sắp xếp này nhằm bảo đảm thống nhất tổ chức bộ máy, phát huy hiệu quả hoạt động hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên trong tình hình mới.
Xem xét tổ chức lại Trung tâm Giáo dục thường xuyên Hải Phòng (phía Đông) theo mô hình gồm 1 Trung tâm Giáo dục thường xuyên Hải Phòng và một số Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên theo cụm trực thuộc Sở, tương đồng với mô hình các trung tâm phía Tây. Việc sắp xếp này nhằm bảo đảm thống nhất tổ chức bộ máy, phát huy hiệu quả hoạt động chuyên môn và đáp ứng yêu cầu đào tạo lao động kỹ thuật tại chỗ cho doanh nghiệp địa phương.
Cho phép tiếp tục rà soát, hoàn thiện Đề án “Phát triển trường Trung học phổ thông Chuyên Nguyễn Trãi, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2020” để đề xuất giải pháp sắp xếp, quản lý các trường trung học cơ sở trọng điểm, chất lượng cao phù hợp với điều kiện thành phố sau hợp nhất.
Chỉ đạo thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với công chức, người lao động có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi hoặc nghỉ thôi việc theo quy định tại Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người lao động và đáp ứng yêu cầu tinh gọn tổ chức bộ máy, biên chế ngành giáo dục trong giai đoạn sắp xếp mới.
Về cơ chế chính sách tài chính, ngân sách, rà soát, ưu tiên bố trí đủ quỹ đất để xây dựng cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn thành phố.
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại hóa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học. Bố trí nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo; kịp thời điều chỉnh tăng mức chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo phù hợp với tăng trưởng của nền kinh tế.
Tiếp tục ưu tiên bố trí ngân sách sự nghiệp và ngân sách đầu tư công cho ngành giáo dục và đào tạo phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục theo quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ. Tăng định mức phân bổ chi sự nghiệp giáo dục theo mức lương cơ sở hiện hành; bố trí tăng kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy học tối thiểu, trang bị phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm phục vụ Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.
Xem xét bố trí vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030, tổng kinh phí khoảng 3.872 tỷ đồng để cải tạo, nâng cấp và xây mới tại 35 trường trung học phổ thông (gồm 19 trường phía Tây và 16 trường phía Đông thành phố), trong đó: phía Tây thành phố đầu tư 1.229 tỷ đồng; phía Đông thành phố đầu tư 2.643 tỷ đồng.
Để nâng cao chất lượng giáo dục cần điều chỉnh tăng thêm mức chi ngân sách cho giáo dục. (Ảnh minh họa: Lã Tiến)
Về phát triển hệ thống giáo dục và xã hội hóa, nghiên cứu đề xuất chính sách ưu đãi đối với giáo dục ngoài công lập: như hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ngoài công lập, khuyến khích thành lập trường tư thục ở những địa bàn có khu công nghiệp, khu dân cư đông hoặc nơi trường công lập quá tải nhằm đa dạng hóa dịch vụ giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của người dân.
Chỉ đạo các sở, ngành và địa phương liên quan tiếp tục đôn đốc, yêu cầu các nhà đầu tư cơ sở giáo dục tư thục đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp phép xây dựng khẩn trương triển khai dự án theo đúng tiến độ cam kết. Chỉ đạo các chủ đầu tư dự án khu đô thị mới tại Hải Phòng thực hiện nghiêm việc bố trí quỹ đất dành cho giáo dục theo đúng các quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt; đồng thời sớm triển khai đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục trong khu đô thị bảo đảm kịp thời nhu cầu học tập của cư dân.
Về chuyển đổi số và hiện đại hóa giáo dục: Quan tâm bố trí nguồn lực riêng cho chuyển đổi số toàn diện trong ngành giáo dục và đào tạo nhất là việc xây dựng cơ sở dữ liệu ngành đồng bộ với quốc gia; phát triển hệ thống quản lý trường học số hóa toàn thành phố; xây dựng kho học liệu số dùng chung; phát triển hệ sinh thái học tập trực tuyến. Đồng thời, từng bước ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý, dạy học. Tiếp tục đầu tư xây dựng phòng học thông minh, trung tâm STEM/Robotics tại các trường để học sinh tiếp cận sớm với khoa học công nghệ hiện đại.
LÃ TIẾN
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/so-gddt-hai-phong-neu-mot-so-kien-nghi-de-nang-cao-chat-luong-giao-duc-post254207.gd