Khi Thế chiến I bùng nổ, Vivian Stranders chuyển đến làm việc cho Pháo binh dã chiến Hoàng gia và phục vụ ở mặt trận phía Tây. Năm 1917, gia nhập Quân đoàn không quân Hoàng gia (RFC) với tư cách là sĩ quan thiết bị và sau khi Không lực Hoàng gia Anh ra đời thì trở thành sĩ quan chuyên trách về tình báo. Sau chiến tranh, Stranders đến Đức làm công tác dịch thuật cho những ủy ban giám sát các điều khoản giải trừ quân bị và bồi thường.
Năm 1921, Stranders giải ngũ, ở lại Đức và thành lập một doanh nghiệp nhập khẩu. Khoảng năm 1926, bắt đầu làm việc cho các cơ quan tình báo Đức, thu thập thông tin về các vấn đề hàng không Pháp. Stranders bị Cục tình báo mật của Anh (SIS) phát hiện và truy nã nhưng đã bị cảnh sát Pháp bắt giữ trước.
Vivian Stranders (giữa) trong một phiên tòa xét xử vào năm 1915.
Vivian Stranders bị phạt 2 năm tù vì tội hoạt động gián điệp công nghiệp. Sau khi được thả, di cư đến Đức gia nhập vào Đảng Quốc xã (Đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ ĐQX. Lãnh tụ của đảng này là Adolf Hitler, được Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm chức Thủ tướng Đế chế Đức) vào năm 1932, nhận quốc tịch Đức năm 1933. Stranders thường hay diễn thuyết bằng tiếng Anh tại các trường đại học Đức và nhận bằng tiến sĩ.
Trong Thế chiến II, Stranders trở thành sĩ quan Schutzstaffel (Schutzstaffel là một tổ chức bán quân sự trực thuộc đảng Quốc xã dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong Thế chiến II) phụ trách tuyên truyền và làm việc với các tù binh chiến tranh Anh. Trên danh nghĩa, Stranders là người đứng đầu Quân đoàn tự do Anh - một đơn vị quân sự nhỏ và không thành công. Sau Thế chiến II, Stranders bị bắt giữ nhưng đã trốn thoát khỏi bị truy tố vì tội phản quốc và sống ung dung đến hết đời tại Đức.
Tham gia quân đội
Vivian Stranders sinh năm 1881. Cha là nhà soạn nhạc, giáo sư của Trường âm nhạc Guildhall (London, Anh). Stranders theo học tại trường Vua Edward’s ở Birmingham (một trường công lập) trước khi nhận bằng ngữ văn cổ điển tại Đại học London. Năm 1903, Stranders tới Đức để làm giáo viên tiếng Đức và học lấy bằng thạc sĩ nghệ thuật. Năm 1904, quay lại London và làm công việc thư ký.
Tháng 6/1910, Stranders lấy Patricia O'Connell tại Glasgow. Stranders gia nhập lực lượng lãnh thổ quân sự (bán tình nguyện) và được bổ nhiệm làm Thiếu úy dự bị trong các đại đội công binh thuộc Quân đoàn công binh Hoàng gia pháo đài Kent vào ngày 7/5/1911. Tới ngày 22/9/1911, Stranders không còn là lính dự bị mà được đưa vào biên chế của đơn vị. Ngày 15/8/1913, được thăng hàm Trung úy. Năm 1914 sau khi Thế chiến I bùng nổ, Stranders đang phục vụ tại Đại đội 10 của Công binh Hoàng gia Anh.
Stranders được chuyển đến Lữ đoàn lực lượng lãnh thổ số 1 (thành phố London) của Lực lượng pháo binh dã chiến Hoàng gia với cấp bậc Thiếu úy vào ngày 8/8/1914. Tháng 7/1915, Stranders được bổ nhiệm vào đội quân đạn dược của Lữ đoàn và đảm nhiệm vai trò này ở mặt trận phía Tây đến năm 1916. Ngày 2/7/1916, được chuyển đến Lực lượng dự bị lãnh thổ, khi đó Stranders đang tạm thời giữ cấp bậc Trung úy.
Ngày 8/2/1917, Vivian Stranders gia nhập Quân đoàn không quân Hoàng gia Anh (RFC) và được bổ nhiệm làm sĩ quan thiết bị hạng 3. Tới ngày 1/7/1917, trở thành sĩ quan thiết bị hạng 2 của RFC và trong vai trò này Stranders được cấp quân hàm tạm thời là Trung úy. Vivian Stranders được chuyển đến Không quân Hoàng gia Anh (RAF) khi lực lượng này được thành lập vào tháng 4/1918. Tới tháng 7 năm đó, được bổ nhiệm làm sĩ quan nhân sự hạng 3 và được cấp quân hàm tạm thời là Đại úy trong thời gian đảm nhận việc tại các trạm của RAF ở Anh. Trong suốt sự nghiệp của mình trong các lực lượng không quân, Stranders đã trở thành một chuyên gia tình báo.
Ngày 8/9/1919 sau khi từ bỏ vai trò tham mưu của mình, Stranders đã trở thành sĩ quan không quân (tương đương với Trung úy), RAF đã áp dụng cơ cấu cấp bậc độc đáo của riêng mình kể từ khi Stranders được bổ nhiệm. Từ tháng 9/1919, Stranders phục vụ tại Ủy ban kiểm soát hàng không đồng minh (AACC) trực thuộc Ủy ban kiểm soát liên quân sự đồng minh (MIACC) và tại Ủy ban bồi thường, chủ yếu làm việc ở Hamburg và Kiel. Stranders làm công tác phiên dịch cũng như giúp đỡ việc quan sát người Đức tuân thủ các hiệp định giải trừ quân bị bao gồm việc chuyển loại máy bay Zeppelin cho quân Đồng Minh.
Ngày 25/8/1920, Stranders được thăng hàm Trung úy pháo binh tại Lực lượng lãnh thổ (có hiệu lực từ ngày 1/7/1917). Khi lực lượng lãnh thổ trở thành Quân đội lãnh thổ, Stranders đã từ bỏ vị trí của mình tại ủy ban lực lượng lãnh thổ vào ngày 30/9/1921. Ngày 21/1/1921, Stranders rời Đức lúc đã giải ngũ khỏi RAF với cấp bậc Đại úy.
Tham gia công tác tình báo
Sau khi giải ngũ, Stranders trở thành một doanh nhân và thành lập một công ty nhập khẩu ở Dusseldorf (Đức) chuyên về các loại xe gắn máy do Anh chế tạo. Vì những hạn chế do Đồng Minh áp đặt lên việc sản xuất quân sự của Đức, những loại hàng hóa nhập khẩu này đã cung cấp động cơ chính cho những chiếc máy bay mà Đức chế tạo ra trong thời kỳ đó. Doanh nghiệp của Stranders cũng nhập khẩu xe đạp và ô tô. Sau đó doanh nghiệp buộc phải dời sang Cologne và Berlin, cũng như một số hoạt động kinh tế ở Paris.
Năm 1925, Stranders lấy một phụ nữ người Đức tại London. Năm 1926, Stranders là đại diện chính thức của một nhà sản xuất máy bay Pháp ở Đức. Cũng trong năm này Stranders đã được các cơ quan tình báo Đức tuyển dụng. Stranders hoạt động năng nổ ở London, Paris và Brussels thu thập tình báo chủ yếu là các vấn đề hàng không của Pháp.
Thiếu tướng Vernon G.W.Keli, bí danh K, giám đốc đầu tiên của Cục an ninh Anh (MI.5).
Stranders bị Cục tình báo mật (SIS) phát hiện trong lúc cố gắng lấy thông tin quân sự Anh và Pháp từ một người Bỉ. Ngày 31/7/1926, người đứng đầu mật vụ, Sir Vernon Kell (Thiếu tướng Sir Vernon George Waldegrave Kell là một tướng quân đội Anh, đồng thời là người sáng lập và giám đốc đầu tiên của Cơ quan An ninh Anh - MI.5) đã chuyển giao tài liệu cho Sở cảnh sát Đô Thành với cáo buộc rằng Stranders là kẻ hai vợ.
Giám đốc Cơ quan công tố Anh Archibald Bodkin đã từ chối truy tố vụ việc vì thiếu bằng chứng, tuy vậy trong quá trình điều tra, cảnh sát đã tìm thấy một lá thư trong tay một nhân chứng có dính líu tới hoạt động gián điệp của Stranders. Vào thời điểm diễn ra cuộc điều tra của người Anh thì Stranders đang ở Paris và bị tình nghi đã gặp mặt một liên lạc viên người Đức tại đó. Cục An ninh Anh đã yêu cầu Nhánh đặc biệt bắt giữ Stranders ngay khi vừa đặt chân đến Anh. Trước đó vào ngày 21/12/1926, Stranders bị cảnh sát Pháp bắt khi họ tình nghi Stranders làm rò rỉ tài liệu tình báo tuyệt mật về hàng không quân sự.
Liên quan đến vụ việc này, nhánh đặc biệt của Anh đã đột kích một bất động sản ở Brixton (London) ngay đầu tháng 1/1927 và đã nói chuyện với một người Anh cùng một người Áo. Vụ án đã thu hút sự chú ý đáng kể từ báo giới và dư luận.
Ngày 11/2, Nghị sĩ quốc hội Shrewsburry, Tử tước Sandon đã hỏi Thứ trưởng Bộ Không quân là ngài Philip Sassoon rằng liệu Stranders có còn tiếp tục được giữ các chức vụ trong lực lượng dự bị RAF hay không thì câu trả lời là không, dù báo chí có những báo cáo trái ngược. Phiên tòa xét xử kín Vivian Stranders bắt đầu vào ngày 24/2/1927.
Phiên xử còn có sự tham gia của người vợ cũ của Stranders và 2 người con của họ. Stranders bị cáo buộc đã cung cấp thông tin về hàng không và một mô hình tăng mới của Pháp cho Đức. Bên bào chữa cho Stranders đã lập luận rằng thông tin mà Stranders thu thập được chỉ là lấy từ nguồn mở, chẳng hạn như danh mục của nhà sản xuất. Tuy nhiên vào ngày 9/9/1927, Vivian Stranders đã bị kết tội hoạt động gián điệp công nghiệp và bị phạt 2 năm tù cùng số tiền phạt 1.000 Fran (tương đương 8 bảng Anh tại thời điểm đó).
Sống an nhàn tại Đức
Sau 18 tháng “bóc lịch”, Stranders được phóng thích và trở về Berlin để làm nhà báo, viết sách chống lại những hạn chế được áp đặt lên nước Đức theo Hòa ước Versailles. Đến năm 1931, Stranders đã ở Weimar và có liên lạc với đảng Quốc xã. Năm 1932, Stranders gia nhập đảng này và sau đó tuyên bố rằng mình có thẻ thành viên được ký bởi Adolf Hitler.
Tháng 4/1933, Stranders trở thành công dân Đức, tiếp đó đến ngày 12/8 cùng năm này Stranders bị tước quyền sử dụng cấp bậc. Stranders học triết học tại Đại học Bonn và giảng dạy tiếng Anh ở đó; tháng 3/1937, được trao bằng Tiến sĩ. Năm 1939 khi Thế chiến II bùng nổ, Stranders tìm kiếm một cơ hội bổ nhiệm cấp cao của đảng Quốc xã ở Berlin, song thay vào đó được tuyển mộ làm phát thanh viên tuyên truyền bằng tiếng Anh dưới cái tên “Người hòa giải”.
Năm 1943, Stranders được bổ nhiệm làm giáo sư của Đại học Halle-Wittenberg Martin Luther. Mùa Hè năm đó được bổ nhiệm vào trụ sở SS trong vai trò chuyên gia về Vương quốc Anh với cấp bậc Thiếu tá. SS là tổ chức bán quân sự này trực thuộc đảng Quốc xã (NSDAP) đặt dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ Châu Âu bị Đức chiếm đóng trong Thế chiến II.
Khởi nguyên của SS là một đơn vị cảnh vệ nhỏ mang tên An ninh hội trường gồm các tình nguyện viên thực hiện công tác giữ gìn an ninh cho các cuộc họp đảng ở Munchen. Năm 1925, Heinrich Himmler gia nhập đơn vị và đổi tên thành SS. Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS phát triển thành một trong những tổ chức thế lực nhất tại ĐQX. Cho đến năm 1945, SS là cơ quan quan trọng nhất về an ninh, giám sát và khủng bố ở Đức cũng như tại các vùng đất ở châu Âu bị nước này chiếm đóng.
Vì Stranders có gốc gác là người Do Thái nên một số đồng nghiệp SS nghi ngờ làm gián điệp cho Anh. Stranders làm việc liên quan đến các tù chiến tranh Anh gồm cả một đơn vị cộng tác của Quân đoàn tự do Anh (BFC, một đơn vị của Waffen-SS của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, bao gồm các tù nhân chiến tranh người Anh và Dominion đã được Đức tuyển mộ), trong đó Stranders là người đứng đầu trên danh nghĩa từ cuối năm 1944 cho đến lúc kết thúc chiến tranh.
BFC được coi là thất bại và chỉ có vài chục thành viên và một số trong số họ đã bị quân Mỹ bắt giữ trong năm 1945. Tháng 2/1945, Stranders làm việc cho Chiến dịch Koniggratz - một chiến dịch tuyên truyền nhắm đến tù chiến tranh Anh. Những bước tiến của Hồng quân buộc Stranders phải chạy trốn trước tiên đến Bremen và tới tháng 4/1945 là đến St Johann ở Tirol (Áo).
Stranders cố gắng biến mất trong hỗn loạn khi chiến tranh kết thúc nhưng bị tình báo Anh truy lùng. Tháng 11/1945, Stranders bị lính Mỹ bắt được tại Garmisch-Partenkirchen (bang Bavaria, Đức). Vì vẫn mang quốc tịch Đức tại thời điểm làm công tác tuyên truyền và khi được thả nên các công tố viên Anh không thể buộc Stranders tội phản quốc. Stranders sống ở Bắc Rhine Westphalia và qua đời sau một thời gian dài lâm bệnh nặng vào năm 1959, thọ 78 tuổi.
Phan Bình (Tổng hợp)