- Bà thêu mẫu cũ nữa à? Người ta giờ toàn in máy, mẫu đẹp lắm, đỡ mất công! Nếu thêu giống hàng Trung Quốc thì dễ bán hơn, ai mua hoa văn xưa nữa bà ơi?
Bà Mẩy không đáp, chỉ nghiêng đầu, đưa kim để luồn vào đoạn chỉ xanh, thứ màu bà phải luộc từ lá chàm ba ngày ba đêm, phơi qua hai sương một nắng, mới ra đúng màu xanh lưng núi mà mẹ bà từng dạy. Nhưng khăn bà thêu không bán được nhiều vì hoa văn truyền thống phức tạp, màu chàm dường như không còn hợp thị trường.
Gió lại nổi. Sợi chỉ thêu rung nhè nhẹ. Từng sợi chỉ nổi lên như gân lá, mỗi đường gấp mang hình dáng của những ngọn đồi biên giới không tên nhưng ai trong bản cũng nhớ. Bà nói khẽ, như nói với sợi chỉ:
- Mẫu mới in được hoa, nhưng không in được mùi hương.
Lành lắc đầu, bỏ đi. Còn bà thì cắm lại kim vào vải và cứ thế tiếp tục thêu về những chỗ không còn nằm trên bản đồ nhưng còn sống dai dẳng trong lòng bàn tay bà và trái tim những người dân bản.
Tối hôm đó, cơm xong, bà Mẩy vẫn ngồi thêu bên bếp. Lành rửa bát xong thì ngồi đối diện với bà, giữa hai người là bếp lửa đang bập bùng, Lành mở điện thoại xem lại hình mẫu khăn mà anh Thức gửi. Nó lật qua lật lại, càng nhìn càng thấy đúng lời anh Thức nói: Đều, rõ, đẹp, hiện đại, ai mà chả thích. Lành nhìn sang tay bà, từng mũi chỉ run nhẹ, màu chàm thì tối. Nó nghĩ, cái này bán sao được.
- Bà ơi, con nói thật nhé? – Lành đắn đo.
- Ừ.
- Hay là mình thêu giống mẫu họ đặt đi. Kiểu gì họ cũng không biết mình là ai. Cứ làm, có tiền rồi tính.
Bà Mẩy ngẩng lên. Lần đầu trong ngày, mắt bà nhìn thẳng vào mắt cháu:
- Giống ai cũng được. Nhưng nếu không còn khác biệt, thì con thêu cho ai?
Lành lặng người. Nó nghĩ đến lần mẹ nó gửi mấy cuộn vải về, bảo bán giúp ở chợ phiên mà bà từ chối. Bà nói:
- Khăn của người ta thêu cho mùa cưới họ. Mình mà mặc lên, tổ tiên mình lạc mất.
Lành cố nói:
- Nhưng bây giờ người ta chỉ mua cái đẹp thôi. Cái đúng không ai hỏi nữa đâu bà.
Bà không phản bác, chỉ nhỏ nhẹ nói:
- Hồi bà còn nhỏ, nhà nào cũng có khung vải. Mỗi dòng họ có một cách vắt chỉ. Nhìn hoa, biết ai thêu. Nhìn màu, biết ai cưới. Bây giờ, bà không giữ lại, thì mai mốt mày cưới, ai biết con dâu bản nào?
Đêm đó, Lành nằm, không ngủ được. Trong đầu là câu hỏi vẩn vơ: Nếu mình thêu giống mẫu đặt hàng, mình sẽ bán được khăn. Nhưng nếu ai hỏi mẫu này của ai thì mình trả lời ra sao?
Mưa dầm cả tuần, đất bản mềm ra như bánh men ngâm nước. Lành tranh thủ dọn lại gác mái, chỗ bà Mẩy vẫn cất những thứ không bán được. Trong góc, giữa đống vải cũ và một khung thêu gãy, Lành nhìn thấy một cuốn vải được cuộn tròn, buộc dây thừng, không nhãn, không tên. Cô cầm lên, bụi bay ra, mùi chàm trộn lẫn khói bếp và cả một thứ gì rất lạ, gần như mùi cây cối đang mốc chậm. Lành mở ra. Trên từng mặt vải không phải thêu hoa, mà là ký hiệu, mỗi hoa văn có dòng ghi chú viết tay bằng mực đen đã phai màu: Ba cánh chéo - họ Lâm; Mắt chim ngang - người khe Vàng; Góc lệch màu than - dâu nhà Cò. Cô lật tiếp thì nhận ra rằng, mỗi tấm là một dòng họ, một biểu tượng. Mẫu cuối cùng có dòng chữ: không còn ai nhớ cách thêu. Nó khiến Lành lặng người.
Tối hôm ấy, cô mang cuốn vải xuống. Bà Mẩy nhìn, tay ngừng thêu, mắt bà không mở to nhưng ánh nhìn sáng lên lạ thường:
- Con Lành còn nhớ cách mở dây vải này là nhà này còn giữ được gốc.
Lành hỏi:
- Sao bà không bao giờ nói cho con biết?
Bà cười:
- Vì ngày xưa bà nói, mày bảo đó là mẫu lạc hậu. Mỗi mẫu thêu trong cuốn ấy không để bán mà để thêu lên áo lúc cưới, để khi đi khỏi bản, nhìn vào viền áo, ai cũng biết đó là con gái bản nào, mang họ nào.
Lành cầm lại cuốn vải, lần đầu thấy tay mình run không phải vì khó, mà vì sợ làm sai. Ngoài hiên, mưa đã ngớt, gió lạnh lại về. Cô gái trẻ ngồi bên bếp, cầm khung thêu, lấy sợi chỉ màu, chọc nhẹ vào mép khăn, thì thầm:
- Bà ơi, dạy con thêu từ mẫu cuối cùng nhé. Con muốn giữ lại thứ mà không máy in nào có được.
Cuối tháng, gió hanh khô, bản Nặm Cát lặng như một nếp gấp cũ nằm giữa lưng núi. Hôm ấy, đoàn cán bộ Sở Văn hóa về khảo sát hoa văn thêu cổ ở vùng biên. Xe bảy chỗ dừng giữa sân bản. Người bước xuống mặc áo sơ mi trắng, máy ảnh to, cầm cặp xách đen bóng. Ai cũng nói giọng lạ của người dưới xuôi. Bản không tiếp khách linh đình. Chỉ có bà Mẩy ngồi trong gian bếp, tay vẫn cầm khăn, mắt nhìn xuống. Lành dẫn họ vào. Một cô cán bộ trẻ bước tới, đưa ra tập ảnh:
- Bà có nhận ra mẫu này không ạ? Chúng cháu đang tìm mẫu mắt Phượng hoàng từng xuất hiện trên áo cưới người bản mình xưa.
Bà Mẩy ngẩng lên, không nhìn ảnh mà rút từ trong cái thúng một chiếc khăn gối cũ, vải ngả màu tro, góc còn thêu mắt chim bằng chỉ nhuộm lá rừng. Cả đoàn xúm lại. Người đàn ông già nhất thốt lên:
- Đúng rồi! Mẫu này từng được ghi lại trong sổ phác họa nhưng thất lạc bản gốc. Sao bà còn giữ được?
Bà nhẹ giọng:
- Mẹ tôi để lại. Dặn rằng mẫu này chỉ thêu cho con gái đi lấy chồng xa.
Lành đứng bên, lần đầu thấy người ta nhìn bà bằng ánh mắt đầy ngưỡng vọng. Không phải vì chuyện buôn bán cũng không phải vì làm đúng đơn hàng mà vì trong tay bà có thứ mà không ai có. Cô cán bộ trẻ xin chụp lại. Lành bảo bà để cô ấy thêu lại làm mẫu phục dựng. Bà gật đầu và nói thêm:
- Mẫu thì chụp được nhưng tay thêu phải nghe tiếng chỉ qua da, không nghe được, mũi chỉ không đúng. Không đúng thì cây, hoa, chim sẽ không sống.
Bà nói thế, Lành chưa hiểu hết và có lẽ những người ở tình cũng chưa hiểu.
Chiều ấy, cả đoàn rời bản với tấm ảnh khăn cổ. Còn bà Mẩy vẫn ngồi trong ánh hoàng hôn nhạt, khung vải nghiêng, sợi chỉ chàm vắt qua đầu gối. Lành rút điện thoại, xóa sạch thư mục “mẫu hot trend”. Rồi lặng lẽ mở cuốn vải cũ, lấy mẫu mắt chim bắt đầu thêu lại.
Sau lần đoàn khảo sát đến, không có lễ tuyên dương, không có ai lên báo, chỉ có một yêu cầu gửi về xã, đề xuất bảo tồn một số hoa văn kèm theo ảnh chụp khăn của bà Mẩy. Lành không nhắc lại chuyện ấy. Cô mượn khung gỗ cũ của bà, dựng ở sàn phơi. Mỗi chiều, cô gọi bọn nhỏ trong bản, toàn con gái, có đứa chưa biết cầm kim lại ngồi học. Ban đầu chỉ ba đứa, sau một tháng có tám. Cô không dạy mẫu đơn hàng, chỉ dạy cách luồn chỉ qua vải mà không lệch nhịp. Mỗi đứa được phát một sợi chỉ chàm và câu hỏi: Nhà mày có ai thêu không? Mày còn nhớ mẫu khăn bà mày cất ở đâu không? Có đứa không nhớ, có đứa chạy về hỏi bà, hôm sau mang tới một mẫu gối rách viền. Có đứa ngồi nghe suốt buổi, không thêu gì cả, chỉ thầm lặp đi lặp lại một cái tên dòng họ được thêu trên áo ngày xưa. Bà Mẩy ngồi trong nhà, nhìn ra, không hề chen vào.
Cuối năm, sương dày đến mức nhìn xuống sân, không thấy rõ dấu chân người qua. Bà Mẩy ngồi trong gian bếp, lần cuối cùng luồn chỉ qua khăn. Sợi chỉ cũ, kim cũng mòn. Mũi cuối cùng bà dừng lại ở mép vải, không khóa, không cắt. Bà tự nói một mình:
- Để con cháu nối tiếp!
Nguyễn Thị Quỳnh Nga