Sông Vân Sàng

Sông Vân Sàng
5 giờ trướcBài gốc
Sông Vân chảy qua thành phố Hoa Lư. Ảnh: P.V
Từ xa xưa trước thế kỷ thứ X, tại ngã ba sông Đáy bên phía Tây núi Non Nước có một dòng sông như một dải lụa trắng vắt dọc qua vùng đất này (nay là thành phố Hoa Lư) êm đềm chảy xuôi về phía Nam đến ngã ba Vũng Trắm, sông rẽ về phía Tây rồi chảy qua ngã ba Ba Vuông (phía Đông sông đoạn đó có thôn Ba Vuông nên lấy tên thôn đặt tên cho ngã ba - Ngày nay thôn Ba Vuông là thôn An Hòa, xã Ninh Phong, thành phố Hoa Lư), chảy tiếp về phía Đông Nam nhập vào sông Trinh Nữ. Một nhánh còn chảy qua thôn Hạ Trạm, xã Ninh Thắng, thành phố Hoa Lư.
Nhánh sông chảy về phía Đông Nam nhập vào sông Trinh Nữ (Yên Mô), rồi theo một số sông chảy đến cửa biển Thần Phù ra biển Đông. Thời ấy sông chưa có tên.
Năm 981 (Tân Tỵ), quân Tống (Trung Quốc) sang xâm lược nước ta. Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn. Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) thân chinh đem quân đi đánh giặc Tống ở phương Bắc. Ông sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng, đánh quân Tống, chúng phải rút lui. Sau đó, ông tiến đến Ải Chi Lăng, cho quân sĩ giả hàng, đặt phục binh chém được đầu Hầu Nhân Bảo. Vua Lê Đại Hành sai các tướng hợp binh đuổi theo đánh quân của Trần Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng. Trần Khâm Tộ bèn rút quân về nước.
Đất nước trở lại thái bình. Vua Lê Đại Hành và quân sĩ rất vui mừng phấn khởi trở về Kinh đô Hoa Lư (xã Trường Yên, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay), đi thuyền về đến cửa biển Thần Phù (xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ngày nay), vào sông Hổ, sông Trinh Nữ đến Ngã ba Cầu Yên, từ đó ngược lên phía Bắc theo dòng sông chảy từ ngã ba núi Non Nước về.
Nghe được tin vua Lê Đại Hành thắng trận trở về, Hoàng hậu Dương Vân Nga ngự thuyền từ sông Sào Khê ở Kinh đô Hoa Lư ra sông Hoàng Long xuôi về sông Đáy, đến ngã ba ở chân núi Non Nước có một dòng sông bắt nguồn từ sông Đáy chảy dọc qua thành phố Hoa Lư ngày nay xuôi về phía Nam. Theo dòng sông đó, Hoàng hậu Dương Vân Nga ngồi thuyền đón đợi thuyền của vua Lê Đại Hành trở về.
Thế là thuyền rồng của vua Lê Đại Hành gặp thuyền rồng của Hoàng hậu Dương Vân Nga ở giữa dòng sông trong tiếng reo hò vang dội của ba quân và trăm họ đón mừng chiến thắng lớn.
Tương truyền, vua Lê Đại Hành bước sang thuyền rồng của Hoàng hậu Dương Vân Nga. Trong thuyền của Hoàng hậu có đặt một cái giường rồng.
Mặt trời về chiều, hoàng hôn ập đến, chưa kịp tắt nắng, thì trên dòng sông đó bỗng đùn đùn mây ngũ sắc phủ kín cả hai thuyền rồng và phủ kín cả khúc sông. Cuộc giao loan của Nhà vua và Hoàng hậu đã diễn ra trong mây nước của dòng sông.
Từ đó, nhân dân mới gọi dòng sông này là Vân Sàng, nghĩa là Giường Mây, quen gọi là Sông Vân.
Sách Đại Nam nhất thống chí (Tập III - NXB KHXH-1971) có ghi:
Tên sông “Vân Sàng”, tục truyền là cái giường mây nước giao hợp, vì Dương Hậu (Hậu phi của Đinh Tiên Hoàng) đặt giường ở trên sông để đón Lê Hoàn khi Lê Hoàn đến, có sắc mây hiển hiện nên gọi là “Vân Sàng””.
Thời xưa, người dân hai bên bờ sông qua lại phải đi thuyền, vì không có cầu. Đến thời Nguyễn, trên dòng sông Vân Sàng mới có cầu.
Theo “Bài ký bia “Cầu Phúc Đăng”“ do Bảng nhãn Vũ Duy Thanh soạn ngày 14 tháng 5 năm Tự Đức thứ 5 (1852), thì đến thời Nguyễn mới có một cây cầu bắc ngang qua sông Vân nằm gần núi Non Nước (núi Dục Thúy) làm bằng gỗ tạp gọi là cầu Non Nước. Vũ Duy Thanh viết: “Trước kia có cầu, gọi là cầu Non Nước vì nó ở gần núi Dục Thúy, cầu ấy không nằm trên đường quan. Ngày trước quan tỉnh thường dùng binh, tạm dùng gỗ tạp bắc cầu, không được 4, 5 năm thì mục nát. Khoảng năm Thiệu Trị (1841-1847), không tu lại”.
Như thế, cây cầu đầu tiên bắc qua sông Vân là cầu Non Nước nằm gần núi Non Nước làm bằng gỗ tạp, có thể xây dựng ở đời vua Minh Mạng (1820-1840). Sở dĩ phỏng đoán được điều này, vì trong bài thơ (không có đầu đề) của Tiến sĩ Ngô Thế Vinh vịnh núi Dục Thúy có 2 câu:
Phiên âm:
“Hoành chu thùy lộng địch,
Xuyên đặng khách thừa kiều”.
Dịch thơ:
Đò ngang ai thổi sáo,
Chèo bậc khách qua cầu”.
Cầu ở đây là cầu Non Nước. Ngô Thế Vinh (1802-1856) sống và làm thơ ở đời vua Minh Mạng (1820-1840) đã nói đến cây cầu đó.
Vì làm bằng gỗ tạp nên sau 5 năm cầu đã hỏng. Sang đời vua Thiệu Trị không xây dựng lại cầu, qua sông Vân vẫn đi lại bằng thuyền.
Cây cầu thứ hai bắc qua sông Vân là cầu Kè (sau thay bằng gỗ lim), có thể được xây dựng vào đời vua Tự Đức (1848-1883). Sách “Đại Nam nhất thống chí” (Sđd) - Trang 254, ghi: “Cầu Phúc Đăng: Ở phía Tây tỉnh thành, chỗ đối ngạn hai xã Phúc Am và Đại Đăng, trước kia bắc bằng gỗ kè, tục gọi cầu Kè …”, cũng gọi là cầu Củ. Sách “Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện” (NXB Chính trị Quốc gia - 2001) của Nguyễn Tử Mẫn - trang 148 viết: “Cầu Phúc Đăng: Tại hai xã Phúc Đăng và Đại Đăng ở phía tây thành của tỉnh, đối ngạn với cây giá Củ trước kia, cho nên tục gọi là cầu Củ”.
Có lẽ, cây cầu Kè cũng xuống cấp, nên “Tự Đức năm thứ 3 (1850), quan Tuần phủ họ Nguyễn Tôn Thất Tĩnh mới đến nhậm chức, khi rỗi việc công, ra ngoài thành, xét coi hình thế, ngoảnh nhìn sông chảy, cho rằng ở đấy nên có cầu để khỏi tình trạng bế tắc, mới bàn cùng Án sát sứ và quan Lãnh binh để làm lại” (Văn bia cầu Phúc Đăng).
Thế là tháng 10 năm Tự Đức thứ 4 (1851), Tuần Phủ tỉnh Ninh Bình họ Nguyễn Tôn Thất Tĩnh đã cho khởi công xây dựng lại cây cầu Kè, đến tháng 4 năm 1852 thì hoàn thành, cầu nằm về phía nam, sát đường quan (nay là Quốc lộ 1A - đường Trần Hưng Đạo) về phía đông. Cầu làm lại toàn bằng gỗ lim, có dựng nhà bằng gỗ lim, mái lợp ngói trên cầu để bảo vệ cầu, khi trời nắng bức hoặc mưa to, người dân trú ngụ trong cầu tránh nắng mưa, gọi là cầu Thiết Lâm (rừng lim), quen gọi là cầu Lim. Cầu làm xong có dựng bia gần cầu do Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết văn bia, tên bia là “Cầu Phúc Đăng”.
Trong bài “Ký bia cầu Phúc Đăng”, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết: “Nếu núi Thúy, sông Vân danh thắng của nghìn thu, tuy không phải nhờ có cái cầu mới được truyền tụng, nhưng mà cầu ấy làm xong, lại thêm một vẻ đẹp nữa cho cảnh danh thắng”. Như thế cầu Lim không chỉ phục vụ giao thông đi lại của con người, mà là nhịp cầu nối những bờ vui, là danh thắng, làm cho dòng sông Vân thêm đẹp, thơ mộng, in hình cây cầu.
Cầu Phúc Đăng không chỉ được Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết văn bia, mà Tuần phủ Ninh Bình Mai viên Đoàn Triển sống ở đời vua Thành Thái (1889-1907), trong bài thơ vịnh núi Dục Thúy (không có đầu đề) có 2 câu đã nói về cầu Phúc Đăng.
Phiên âm:
“Thành phục sơn nhưng trĩ
Kiều hoành thủy tự lưu”.
Dịch thơ:
Thành kề núi vẫn cao,
Cầu ngang sông vẫn chảy”.
Điều đó thể hiện cầu Phúc Đăng đã có chỗ đứng vững chãi trong văn thơ.
Cầu Lim trước đây có tên là cầu Kè được xây dựng ở đời vua Tự Đức, còn có tên là cầu Phúc Đăng, vì phía tây cầu là xã Phúc Am, phía đông cầu là xã Đại Đăng cũ, lấy hai chữ ở tên 2 xã ghép thành tên cầu. Cầu Lim tồn tại đến sau này, nhưng nhà lim mái ngói không còn, đến năm 1980 được tu sửa nâng cấp. Mãi đến năm 2000, cầu Lim được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép kiến cố và hoàn thành vào năm 2001. Cầu dài 39,25m, rộng 25m. Mặc dù xây dựng lại bằng bê tông, cầu vẫn gọi là cầu Lim.
Đó là cây cầu được bắc lại qua sông Vân từ đời vua Tự Đức. Hiện nay, cầu nối Quốc lộ 1A (đường Trần Hưng Đạo) rẽ phải là đường Quốc lộ 1A và đi thẳng vào Quốc lộ 10 xuống huyện Kim Sơn.
Còn cầu Vân Giang trước đây có tên là cầu Xi Măng. Cầu Xi Măng được xây dựng từ thời Pháp thuộc vào khoảng sau năm 1883 khi thực dân Pháp đánh chiếm Ninh Bình, dùng xi măng và sắt nhưng còn nhỏ hẹp, đến năm 2008 cầu Xi Măng được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép to đẹp và vững chãi hơn, gọi là cầu Vân Giang. Hiện nay cầu Vân Giang nằm cuối tuyến đường Lê Hồng Phong, trên địa bàn phường Vân Giang, có hai làn cầu rộng, 2 bên có 2 đường dành cho người đi bộ, lan can cầu bằng đá. Cầu có kích thước gần như cầu Lim ngày nay.
Dòng sông Vân là một huyền thoại vẫn ngày đêm chảy, là mặt gương dài soi giữa lòng thành phố với cây cầu Lim, gọi là cầu Phúc Đăng in bóng xuống dòng sông. Đó là một kỷ niệm gắn với lịch sử của thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, một công trình phục vụ giao thông đi lại, góp phần vào chiến thắng của dân tộc trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng, đổi mới đất nước.
Trong ký ức của các thế hệ người dân Ninh Bình, đó còn là nhịp cầu nối những bờ vui, là nơi hẹn hò của trai thanh nữ tú, là nơi tiễn người đi xa, là nơi gặp gỡ và đoàn tụ của người trở về, làm cho sông Vân Sàng nên thơ và đẹp đẽ. Núi Thúy - Sông Vân từ lâu đã trở thành biểu tượng gắn với lịch sử và văn hóa của vùng đất Ninh Bình sơn thanh thủy tú.
Lã Đăng Bật
Nguồn Ninh Bình : https://baoninhbinh.org.vn/song-van-sang-641054.htm