Việc sắp xếp lại bộ máy hành chính, sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện những năm gần đây đã và đang tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức hệ thống chính trị ở nhiều địa phương. Đây là chủ trương lớn nhằm tinh giản bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đồng thời tiết kiệm ngân sách, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Tuy nhiên, đi kèm với tiến trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là một vấn đề phát sinh khá nan giải: xử lý số lượng lớn trụ sở dôi dư sau sáp nhập.
Từ góc nhìn của ông Nguyễn Sỹ Dũng - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, có thể thấy rõ rằng: “Việc sử dụng các trụ sở dôi dư cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng địa phương, trên tinh thần ưu tiên phục vụ dân sinh, hạn chế lãng phí, và nếu không còn nhu cầu thì tiến hành đấu giá công khai để thu hồi nguồn lực cho ngân sách”.
Thực trạng trụ sở dôi dư sau sáp nhập
Báo cáo tổng hợp của Bộ Nội vụ cho thấy, hiện cả nước có khoảng hơn 38.000 trụ sở công ở cấp tỉnh. Sau khi sáp nhập, vẫn còn hơn 4.200 trụ sở dôi dư cần phải xử lý. Đáng chú ý hơn, khi áp dụng mô hình chính quyền địa phương hai cấp từ tháng 7/2025, dự kiến có thêm hơn 18.500 trụ sở các cơ quan, đơn vị sẽ không còn chức năng “công sở”. Điều này cho thấy quy mô, khối lượng tài sản công dôi dư là rất lớn, đòi hỏi phải có phương án xử lý đồng bộ, bài bản, tránh gây lãng phí, thất thoát tài sản công, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích kinh tế - xã hội.
Sau sắp xếp, quận Cầu Giấy (Hà Nội) từ 8 phường còn 3, gồm Cầu Giấy, Nghĩa Đô và Yên Hòa. Khi đó, có tới 6 trụ sở UBND dư ra trong đó có trụ sở UBND phường Dịch Vọng Hậu tại 86 phố Trần Thái Tông - một vị trí trung tâm có giá bất động sản khá đắt đỏ (Ảnh: Đình Khương).
Trên thực tế, nhiều địa phương đã và đang gặp khó khăn trong việc giải quyết bài toán này. Tại Thái Bình, nhiều trụ sở xã sau sáp nhập phải tiếp nhận số lượng cán bộ tăng gần gấp ba lần so với trước, dẫn tới tình trạng chật chội, thiếu không gian làm việc, trong khi các trụ sở cũ ở các xã bị sáp nhập lại bỏ trống. Hay như tại Hà Tĩnh, sau gần 5 năm thực hiện sáp nhập, hàng chục trụ sở xã vẫn bỏ hoang do vướng mắc pháp lý, thiếu phương án xử lý khả thi. Những ngôi nhà trụ sở kiên cố dần xuống cấp, hư hỏng do không có người quản lý, bảo vệ.
Trong khi đó, tại Bắc Giang, cách tiếp cận chủ động, linh hoạt hơn đã phần nào cho thấy hiệu quả bước đầu. Trong số 244 trụ sở thuộc diện sắp xếp, tỉnh đã quyết định giữ lại 136 trụ sở cho các đơn vị hành chính mới, đồng thời chuyển đổi công năng 79 trụ sở dôi dư phục vụ các lĩnh vực thiết yếu như giáo dục, y tế, văn hóa, còn lại giao cho Trung tâm Phát triển quỹ đất quản lý, khai thác. Cách làm của Bắc Giang phản ánh đúng tinh thần chỉ đạo mà ông Nguyễn Sỹ Dũng đã nêu: trước hết, phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn tại địa phương, ưu tiên những lĩnh vực dân sinh cấp bách.
Ưu tiên phục vụ dân sinh, tránh lãng phí nguồn lực công
Theo ông Nguyễn Sỹ Dũng, “ưu tiên hàng đầu nên dành cho các lĩnh vực phục vụ dân sinh, trước hết là những lĩnh vực cấp thiết như giáo dục, y tế”. Thực tế cũng cho thấy, tại nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất phục vụ giáo dục, y tế còn hạn chế, thiếu thốn. Việc chuyển đổi các trụ sở dôi dư thành trường học, trạm y tế, nhà trẻ, thư viện cộng đồng... không những giúp tận dụng tốt nguồn lực sẵn có mà còn cải thiện chất lượng dịch vụ công ngay tại cơ sở.
Việc sử dụng trụ sở dôi dư sau sáp nhập, ông Nguyễn Sỹ Dũng cho rằng, ưu tiên hàng đầu nên dành cho các lĩnh vực phục vụ dân sinh với những lĩnh vực cấp thiết như giáo dục, y tế...
Như Bắc Giang, nhiều trụ sở hiện hữu vốn được xây dựng kiên cố, vị trí thuận lợi, nếu phải phá bỏ hoặc chuyển đổi sang mục đích thương mại sẽ tốn kém chi phí rất lớn. Trái lại, tận dụng những công trình này làm trường học, trạm y tế hay trung tâm sinh hoạt cộng đồng vừa tiết kiệm ngân sách đầu tư mới, vừa mang lại lợi ích thiết thực, phục vụ trực tiếp cho người dân.
Tương tự, tại Thái Nguyên, 75 trụ sở dôi dư sau sáp nhập cũng được rà soát kỹ lưỡng, trong đó nhiều trụ sở được ưu tiên chuyển đổi cho y tế, giáo dục, công an, quân đội. Những trụ sở còn lại sẽ được điều hòa nội bộ hoặc lập phương án xử lý phù hợp với thực tiễn.
Ở góc nhìn tổng thể, có thể khẳng định, việc ưu tiên chuyển đổi công năng phục vụ dân sinh là hướng đi đúng đắn, giúp tăng chất lượng sống của người dân, đồng thời giảm áp lực cho ngân sách nhà nước trong việc đầu tư mới hệ thống hạ tầng cơ bản.
Những khó khăn, vướng mắc pháp lý cần tháo gỡ
Dù có những tín hiệu tích cực, nhưng việc xử lý trụ sở dôi dư vẫn còn không ít vướng mắc, đặc biệt là về pháp lý, thủ tục hành chính. Hiện nay, tiêu chuẩn định mức và mô hình của các cơ sở vật chất khi chuyển đổi công năng vẫn chưa rõ ràng. Thêm vào đó, việc điều chỉnh lại quy hoạch sử dụng đất, xây dựng cũng mất rất nhiều thời gian.
Về vấn đề này, trao đổi với PetroTimes, ông Phan Đức Hiếu - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng: “Hiện nay, về việc sử dụng, sắp xếp lại các cơ sở nhà đất công, thực tế là chưa có thông tin đầy đủ, rõ ràng để đánh giá, do đó các chuyên gia, địa phương cũng chỉ có thể nêu ý kiến ở mức băn khoăn, thảo luận sơ bộ chứ chưa có căn cứ chính thức để đánh giá toàn diện”.
Ông Hiếu cũng nhấn mạnh, hiện tại chủ yếu mới áp dụng các nguyên tắc chung được nêu trong Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 190 của Quốc hội. Tuy nhiên, để triển khai xử lý chi tiết trên thực tế thì vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc do thiếu các hướng dẫn cụ thể hơn. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng sắp xếp, xử lý cơ sở nhà đất công hiện nay đang gặp nhiều hạn chế về thông tin, số liệu, cũng như thiếu khung hướng dẫn chi tiết để tháo gỡ các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi các văn bản quy định liên tục được sửa đổi, bổ sung. Như tại Hà Tĩnh, lãnh đạo Sở Tài chính địa phương cho biết, theo quy định mới của Luật Đất đai 2024 và các nghị định hướng dẫn, hình thức bán đấu giá tài sản công gắn với đất gần như không còn áp dụng. Vì vậy, các trụ sở dôi dư không còn khả năng bán để thu hồi vốn như trước đây, mà phải chuyển sang phương án giao cho các tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, khai thác cho thuê, hoặc chuyển công năng phục vụ công cộng.
Trong bối cảnh đó, các địa phương đều kiến nghị Trung ương sớm ban hành bộ tiêu chí, quy chuẩn kỹ thuật về chuyển đổi công năng, hướng dẫn thủ tục xử lý trụ sở dôi dư một cách đồng bộ, thống nhất, tránh để tình trạng lúng túng, kéo dài nhiều năm như thực tế đã xảy ra tại một số nơi.
Xã Tân Lập (Đan Phượng, Hà Nội), sau sáp nhập chuyển một phần thuộc xã Ô Diên (huyện Đan Phượng tách thành 3 xã mới là Đan Phượng, Ô Diên, Liên Minh), và một phần thuộc xã Hoài Đức (huyện Hoài Đức sắp xếp thành 4 đơn vị hành chính), khi đó trụ sở UBND xã Tân Lập tại Số 30, đường Hạ Hội, xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, Hà Nội cũng dư ra (Ảnh: Đình Khương).
Đề xuất một cơ chế linh hoạt hơn
Từ thực tế các địa phương và ý kiến của ông Nguyễn Sỹ Dũng, có thể thấy cần phải có cơ chế xử lý tài sản dôi dư thực sự linh hoạt, phù hợp từng nhóm địa phương. Ở các vùng nông thôn, miền núi, cần tập trung vào chuyển đổi công năng phục vụ các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa cơ sở, thể thao cộng đồng. Ở các khu đô thị lớn, có thể xem xét chuyển đổi công năng trụ sở thành thư viện, trung tâm sáng tạo khởi nghiệp, khu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoặc không gian sinh hoạt công cộng.
Bên cạnh đó, với các công trình có giá trị thương mại cao, nên có quy định mở rộng cho phép đấu giá công khai quyền sử dụng đất (trong những khu vực quy hoạch phù hợp), thu hồi nguồn lực cho ngân sách để tái đầu tư vào những hạ tầng dân sinh thiết yếu khác. Điều này không những giúp khai thác hiệu quả quỹ tài sản công dôi dư mà còn tránh nguy cơ tài sản bị bỏ hoang, xuống cấp, gây thất thoát.
Đặc biệt, để việc chuyển đổi thành công, các địa phương cần được giao quyền chủ động cao hơn trong quyết định xử lý tài sản dôi dư, trong khi các bộ ngành trung ương đóng vai trò ban hành cơ chế khung, hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ giám sát và kiểm tra minh bạch quá trình thực hiện.
Ý kiến của ông Nguyễn Sỹ Dũng về việc sử dụng trụ sở dôi dư sau sáp nhập là một định hướng rất thực tế, hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Bài toán này không chỉ đơn thuần là câu chuyện kỹ thuật xử lý tài sản công, mà thực chất liên quan đến tư duy quản trị nguồn lực công, khả năng tổ chức thực hiện chính sách và sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành.
Nếu không có cơ chế linh hoạt, xử lý kịp thời, hàng chục ngàn công trình kiên cố có nguy cơ trở thành "di sản bỏ hoang", lãng phí nguồn lực quốc gia. Nhưng nếu làm tốt, thì chính những công trình dôi dư ấy có thể nhanh chóng trở thành hệ thống hạ tầng phục vụ dân sinh, nâng cao phúc lợi xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Việc đưa ra một bộ tiêu chí chuyển đổi công năng thống nhất, đơn giản hóa quy trình xử lý, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho địa phương đó sẽ là chìa khóa để giải quyết hiệu quả bài toán tưởng như nan giải này.
Đình Khương