Theo Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh, từ khi Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực thi hành, số lượng và chất lượng vụ việc TGPL trên địa bàn, nhất là lĩnh vực tham gia tố tụng tăng lên hàng năm, góp phần đảm bảo hỗ trợ pháp lý cho người dân, đặc biệt là các đối tượng yếu thế.
Trong thời gian qua, Trung tâm TGPL Nhà nước TP đã tiếp nhận tổng số 25.588 vụ việc TGPL, trong đó tư vấn pháp luật là 13.994 vụ việc; tham gia tố tụng là 9.224 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng là 131 vụ việc.
Tuy nhiên, hiện nay, Điều 7 Luật TGPL năm 2017 quy định 14 nhóm đối tượng thuộc diện được TGPL, nhưng thực tiễn vẫn còn nhiều đối tượng được TGPL theo các luật chuyên ngành như Luật Người khuyết tật, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Phòng, chống mua bán người và Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 mà Luật TGPL chưa điều chỉnh.
Bên cạnh đó, thực tiễn hiệu quả phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác TGPL chưa cao, chưa có biện pháp bảo đảm, chế tài xử lý nếu không thực hiện, dẫn đến bỏ sót các đối tượng được TGPL, nhất là lĩnh vực dân sự, hành chính.
Quá trình thực hiện công tác phối hợp cũng gặp khó khăn nhất định, thực tế có những trường hợp cơ quan tố tụng chưa kịp thời giải thích quyền cho người thuộc diện được TGPL, dẫn đến khi Trung tâm nhận được văn bản đề nghị thì phát hiện những đối tượng này đã không còn thuộc đối tượng TGPL (thường tập trung ở những đối tượng là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, người thuộc hộ nghèo), như vậy chưa đảm bảo quyền cho người được TGPL tốt nhất trên thực tiễn.
Luật TGPL cũng chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, UBND cấp xã trong công tác TGPL. Điều này chưa phù hợp với yêu cầu tăng cường vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền cơ sở khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay.
Ngoài ra, sau 8 năm triển khai thực hiện Luật TGPL năm 2017, Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh nhận thấy, hiện còn những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn như các nhóm đối tượng được TGPL theo khoản 1, 2, 4 Điều 7 Luật TGPL như người có công với Cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người hoạt động tiền khởi nghĩa 1945 hiện nay không còn nhiều.
Bên cạnh đó, thực tế, hiện hộ gia đình mới thoát nghèo, công nhân tại các khu công nghiệp và những người buôn bán nhỏ, hộ có thu nhập thấp... chưa có khả năng kinh tế để thuê các dịch vụ pháp lý bên ngoài nhưng chưa được quy định trong luật TGPL.
Do đó, quá trình sửa đổi Luật TGPL, đề nghị tiếp tục nghiên cứu, rà soát, xem xét, bổ sung, mở rộng nhóm đối tượng diện được TGPL đối với hộ gia đình mới thoát nghèo, công nhân tại các khu công nghiệp và những người buôn bán nhỏ, hộ có thu nhập thấp.
Từ ngày 1/7/2025, chính quyền địa phương 2 cấp được vận hành trên cả nước, không còn đơn vị hành chính cấp huyện. Nhiều tỉnh, TP sau sáp nhập, trong đó có TP Hồ Chí Minh, địa bàn rất rộng, dân số đông, điều kiện địa lý và giao thông vô cùng đa dạng, có thể thuận tiện đi đến các Trung tâm TGPL nhưng khoảng cách địa lý lại rất xa.
Khoản 2 Điều 11 Luật TGPL quy định “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm TGPL nhà nước, được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước...” đã không còn phù hợp với thực tiễn và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Do đó, nội dung nội hàm khái niệm về “Chi nhánh”, tiêu chí, điều kiện thành lập Chi nhánh cũng cần được xem xét, đánh giá làm rõ trong dự thảo Luật TGPL sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu trên, từ thực tiễn triển khai thực hiện Luật TGPL, Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh kiến nghị nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật, sửa đổi, bổ sung Luật TGPL theo hướng đồng bộ với các Luật và văn bản pháp luật có liên quan trong việc thực hiện TGPL cho các đối tượng yếu thế; mở rộng lĩnh vực TGPL, bỏ giới hạn lĩnh vực kinh doanh thương mại trong một số trường hợp cụ thể, nhằm hỗ trợ pháp lý cho người thuộc diện nghèo có nhu cầu tư vấn kinh doanh để thoát nghèo.
Đồng thời, xem xét mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách TGPL đối với những người thực tế có khó khăn về tài chính nhưng không cung cấp được các giấy tờ chứng minh điều kiện khó khăn về tài chính theo quy định tại Điều 2 Nghị định 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL để phù hợp với tình hình thực tiễn và quan điểm chỉ đạo của Trung ương nêu tại Nghị quyết số 27/NQ-TW.
Cùng với đó, Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh cũng đề nghị xem xét, làm rõ nội hàm khái niệm “Chi nhánh” nêu tại khoản 2 Điều 11 Luật TGPL; xem xét, điều chỉnh tiêu chí, điều kiện thành lập Chi nhánh cho phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp.
Xem xét, bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc phối hợp xác minh, hỗ trợ và giới thiệu người dân tiếp cận với dịch vụ TGPL khi có nhu cầu.
Ngoài 3 hình thức TGPL (tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng), Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh cũng đề nghị xem xét bổ sung các hình thức TGPL đã được thực hiện hiệu quả trên thực tế trong thời gian qua như hòa giải cơ sở, tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Xem xét quy phạm hóa các chương trình trực TGPL tại Tòa án nhân dân và trong điều tra hình sự 24/24 giờ thành quy định cụ thể trong Luật TGPL, quy định rõ trách nhiệm cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác phối hợp TGPL; có biện pháp bảo đảm thực hiện và chế tài phù hợp.
Bổ sung, cập nhật diện “TGPL miễn phí” theo quy định tại Điều 7 Luật TGPL (người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, người nhiễm HIV) trên ứng dụng định danh điện tử (VNeID) để thuận lợi cho các bên (người được TGPL, Trung tâm, chính quyền địa phương, cơ quan tiến hành tố tụng) trong việc xác minh người thuộc diện TGPL theo quy định.
Nghiên cứu, tăng cường chế độ đãi ngộ, chính sách ưu đãi cho người thực hiện TGPL và viên chức tại các Trung tâm TGPL nhà nước để thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao…
Minh Khôi