Sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả! Bài 3: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tiết kiệm năng lượng

Sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả! Bài 3: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tiết kiệm năng lượng
17 giờ trướcBài gốc
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNL TK&HQ) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011 đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước coi SDNL TK&HQ là chính sách được ưu tiên hàng đầu, giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, sau gần 15 năm triển khai thi hành, đến nay đã bộc lộ bất cập cần phải rà soát để sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật và các luật liên quan để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn hoạt động sử dụng năng lượng trong các ngành công nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm công nghiệp để ứng phó với các thách thức mới, đặc biệt là các thách thức ở quy mô toàn cầu.
Theo Bộ Công Thương, quản lý năng lượng tại các doanh nghiệp (cơ sở sử dụng năng lượng), đặc biệt là cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm là nội dung trọng tâm của Luật SDNL TK&HQ. Các phân tích và khảo sát trong quá trình thực thi Luật cho thấy cho thấy còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực quản lý năng lượng tại doanh nghiệp.
Ông Đặng Hải Dũng – Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công nêu dẫn chứng, Luật SDNL TK&HQ quy định các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm phải áp dụng mô hình quản lý năng lượng, có trách nhiệm bổ nhiệm người quản lý năng lượng nhằm xây dựng kế hoạch hàng năm và 5 năm về SDNL TK&HQ, thực hiện các biện pháp, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các biện pháp SDNL TK&HQ cũng như phải có trách nhiệm thực hiện kiểm toán năng lượng 3 năm một lần theo quy định của Luật.
Qua công tác kiểm tra, giám sát cho thấy, tính tuân thủ Luật còn nhiều hạn chế, có hiện tượng doanh nghiệp thực hiện chưa nghiêm các quy định về lập kế hoạch, báo cáo thực hiện kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; thực hiện kiểm toán năng lượng; hoặc thực hiện một cách hình thức, đối phó với cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm hiện nay (năm 2023) là 3.491 cơ sở bao gồm 2.864 cơ sở công nghiệp, 18 cơ sở sản xuất nông nghiệp, 70 đơn vị vận tải, 539 công trình xây dựng, chiếm trên 50% tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng của cả nước.
Do đó, cần nghiên cứu, điều chỉnh theo hướng tăng số lượng cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, đảm bảo mục tiêu tăng cường quản lý bắt buộc đối với nhóm đối tượng sử dụng nhiều năng lượng…
Bên cạnh đó, việc tuân thủ xây dựng mô hình quản lý năng lượng chưa đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực.
Đơn cử như, qua thực hiện khảo sát, 100% các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm thuộc lĩnh vực xây dựng, sản xuất công nghiệp và kinh doanh đã xây dựng hệ thống quản lý năng lượng. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực giao thông vận tải thì các doanh nghiệp hầu hết chưa xây dựng quy định về xây dựng mô hình quản lý năng lượng.
Ông Dũng cho biết, nguyên nhân là do đặc thù ngành nghề nên các doanh nghiệp giao thông vận tải khó áp dụng các quy định chung về xây dựng mô hình quản lý năng lượng, kiểm toán năng lượng.
Nhiều doanh nghiệp và Hiệp hội Giao thông vận tải đề xuất, khuyến nghị áp dụng mô hình hoặc thiết chế quản lý năng lượng phù hợp đối với từng lĩnh vực đường bộ, đường thủy và hàng không; có thể lựa chọn phương thức quản lý theo hiệu suất năng lượng của phương tiện hoặc tuân thủ các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Trong khi đó, việc áp dụng mô hình quản lý năng lượng ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là tương đối tốt. 100% có Chương trình, kế hoạch tiết kiệm năng lượng.
Tuy nhiên trong lĩnh vực phân phối, kinh doanh xăng dầu còn thiếu đồng bộ và nhất quán. Đánh giá này dựa trên kết quả khảo sát nhận được từ 13 tập đoàn, tổng công ty sản xuất, kinh doanh, phân phối năng lượng”- ông Dũng nhấn mạnh.
Ngoài ra, số lượng các khóa đào tạo cán bộ quản lý năng lượng, kiểm toán viên năng lượng chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thực tế. Đồng thời, địa phương đã thực hiện kiểm tra, giám sát việc dán nhãn năng lượng nhưng chưa triệt để do nhu cầu số lượng sản phẩm dán nhãn năng lượng là rất lớn.
Từ thực tiễn trên ông Việt đề nghị, Luật sửa đổi cần tăng cường hỗ trợ công tác tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra, giám sát việc thực hiện dán nhãn năng lượng của các doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi pháp luật.
Đồng thời, phân cấp, phân quyền cho các địa phương được đào tạo, cấp chứng nhận cho cán bộ quản lý năng lượng, kiểm toán viên năng lượng và tiếp nhận hồ sơ đăng ký, kiểm tra, giám sát việc dán nhãn năng lượng
Ở góc nhìn khác, ông Trần Viết Nguyên, Phó trưởng Ban Kinh doanh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã trao đổi và góp ý về cung cấp dịch vụ tiết kiệm năng lượng theo mô hình dịch vụ năng lượng ESCO.
EVN đề xuất cần thiết phải bổ sung vào Luật sửa đổi Luật SDNL TK&HQ khái niệm về mô hình ESCO, các cơ chế chính sách tạo hành lang pháp lý, khuyến khích hoạt động các công ty ESCO, nhằm thúc đẩy thị trường dịch vụ năng lượng phát triển nhanh ở Việt Nam.
Về vấn đề này, ông Đào Sỹ Thanh - Nguyên Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng thành phố Hải Phòng cho biết: Nhu cầu sử dụng hiệu quả năng lượng đối với doanh nghiệp rất cao. Trong khi hiện nay năng lực trong lĩnh vực SDNL TK&HQ của các đơn vị dịch vụ tiết kiệm năng lượng còn hạn chế. Để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, ông Thanh cho rằng, nội dung sửa đổi Luật cần làm là để các đơn vị làm dịch vụ tiết kiệm năng lượng có thể phát triển được, muốn vậy hành lang pháp lý cho đơn vị này cần phải làm rõ, đồng thời hỗ trợ nguồn lực và giải pháp cho đơn vị ESCO bao gồm: tài chính, nhân lực, thiết bị công nghệ.
Đối với lĩnh vực do Bộ Xây dựng quản lý, đại diện Bộ cho rằng, Luật ngoài bổ sung dán nhãn cho vật liệu xât dựng cần bổ sung dán nhãn cho các công trình xây dựng sử dụng nhiều năng lượng (ví dụ Trung tâm dữ liệu). Đồng thời có chính sách thúc đẩy ưu đãi hơn cho các công trình xanh, công trình tiết kiệm năng lượng…
Nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh, cùng với việc chuyển đổi mạnh mẽ cơ bản nguồn năng lượng hợp lý theo hướng giảm thiểu nguồn năng lượng có nguồn gốc hóa thạch, tăng mạnh nguồn năng lượng tái tạo, việc thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được xem là giải pháp hữu hiệu.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này, Bộ Công Thương đang triển khai nhiều chươg trình dự án hướng đến thúc đẩy các mô hình sản xuất kinh doanh theo hướng tăng trưởng xanh; áp dụng giải pháp khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng.
Các sáng kiến và chính sách của cơ quan quản lý nhà nước là bước đi quan trọng, nhưng để chuyển dịch xanh thực sự thành công, sự tham gia của doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu.
Cộng đồng doanh nghiệp đã và đang thể hiện là một chủ thể hạt nhân, nòng cốt, xung kích trong việc thực thi các cam kết của Việt Nam về biến đổi khí hậu và đạt được kết quả tích cực trong cắt giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi sang sử dụng nguồn năng lượng xanh, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, hiện Bộ Công Thương đang trình Chính phủ dự thảo sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Theo kế hoạch, dự thảo luật sẽ được trình Quốc hội xem xét thông qua vào kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV diễn ra vào tháng 6/2025.
Dự kiến Luật sẽ sửa đổi 16/48 Điều tại Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010.
Với quan điểm việc xây dựng dự thảo luật được thực hiện theo tinh thần chỉ quy định các vấn đề khung, ngắn gọn, đi thẳng vào các chính sách, nội dung cần sửa đổi, bổ sung; Thực hiện cắt giảm thủ tục hành chính và phân cấp tối đa để các địa phương, doanh nghiệp chủ động thực hiện, Bộ Công Thương đang tập trung đánh giá, đề xuất sửa đổi 04 nhóm chính sách của Luật, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chính sách về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Mục tiêu của chính sách nhằm tăng số lượng cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, đảm bảo mục tiêu tăng quản lý bắt buộc đối với nhóm đối tượng sử dụng nhiều năng lượng;
Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước (trung ương và địa phương) trong việc xây dựng chính sách và quản lý hoạt động tiết kiệm năng lượng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải.
Để thực hiện, Luật đề xuất giao Chính phủ điều chỉnh việc xác định mức sử dụng năng lượng cho cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu tiết kiệm năng lượng của đất nước.
Xem xét điều chỉnh tăng cường trách nhiệm của địa phương trong việc kiểm tra tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức tiêu thụ năng lượng của các doanh nghiệp tại địa phương và việc xây dựng kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; theo dõi, đôn đốc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch của địa phương, kiểm tra, giám sát tuân thủ các quy định về SDNL TK&HQ.
Bổ sung trách nhiệm quản lý hoạt động dán nhãn năng lượng đối với sản phẩm vật liệu xây dựng, giao Chính phủ quy định trong tổ chức, triển khai, thực hiện, tăng cường phân cấp cho địa phương trong hoạt động kiểm tra giám sát.
Thứ hai: Chính sách về quản lý, phát triển đối với dịch vụ tư vấn năng lượng, kiểm toán năng lượng, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Mục tiêu của chính sách nhằm bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để tạo điều kiện và khuyến khích các bên tham gia thị trường năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ tư vấn.
Cải thiện chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý năng lượng, kiểm toán viên năng lượng và nâng cao được năng lực chuyên môn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Luật đề xuất giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng các cơ chế hỗ trợ và khuyến khích để hình thành hệ thống các công ty dịch vụ tư vấn năng lượng; Bổ sung thêm nội dung quy định cụ thể về thời hạn của chứng chỉ kiểm toán viên năng lượng và chứng chỉ quản lý năng lượng và giao Chính phủ quy định điều kiện về điều kiện kinh doanh ngành nghề kiểm toán năng lượng để đảm bảo chất lượng dịch vụ.
Thứ ba: Chính sách, quy định về chính sách ưu đãi, công cụ hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
Chính sách này nhằm xây dựng cơ sở pháp lý để hình thành và vận hành hiệu quả công cụ Quỹ tài chính quốc gia thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng xã hội hóa. Qua đó, huy động nguồn lực trong và ngoài nước để triển khai các hoạt động tiết kiệm năng lượng, từng bước hình thành thị trường dịch vụ tiết kiệm năng lượng minh bạch tại Việt Nam.
Để thực hiện chính sách này, Luật sẽ bổ sung quy định thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam theo hướng xã hội hóa, tận dụng các nguồn lực trong và ngoài nước, hạn chế sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Đồng thời, bổ sung, làm rõ các quy định về hỗ trợ thuế, hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, trong đó có các dự án nâng cấp, cải tạo dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất bằng công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Thứ tư: Chính sách chuyển đổi thị trường và quản lý hiệu suất phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng
Theo đó, Luật sẽ xây dựng, bổ sung các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm hiệu suất cao, từng bước loại bỏ các sản phẩm hiệu suất thấp đối với lĩnh vực vật liệu xây dựng; Giải quyết các thiếu sót, vướng mắc về chính sách quản lý hiệu suất năng lượng cho các phương tiện thiết bị sử dụng năng lượng và dán nhãn năng lượng thuộc lĩnh vực xây dựng.
Để thực hiện chính sách này, Luật sẽ bổ sung làm rõ đối tượng dán nhãn năng lượng cho nhóm vật liệu xây dựng; Bãi bỏ quy định cấp giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tăng cường việc kiểm tra sau dán nhãn (hậu kiểm).
Trước đó vào ngày 12/3 Bộ Tư pháp đã họp thẩm định Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (sửa đổi). Tại phiên thẩm định này, đại diện Bộ Tư pháp, ông Lê Đại Hải – Phó Chủ tịch Hội đồng thầm định đã đánh giá cao hồ sơ, nội dung dự án luật và việc tiếp thu, giải trình ý kiến của cơ quan chủ trì soạn thảo và khẳng định dự thảo Luật đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi cơ quan soạn thảo tiếp thu, giải trình, chỉnh sửa một số kiến nghị của hội đồng thẩm định.
Thực hiện Nghị quyết số 65/2025/UBTVQH15 ngày 15 tháng 01 năm 2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025; ngày 14 tháng 02 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 283/QĐ-TTg về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án Luật được điều chỉnh bổ sung vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2025. Theo đó Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ dự kiến trình Ủy ban thường vụ Quốc hội vào tháng 3 năm 2025.
Thu Hường
Đồ họa: Hồng Thịnh
Thu Hường - Hồng Thịnh
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/sua-doi-luat-su-dung-nang-luong-tiet-kiem-hieu-qua-bai-3-nang-cao-hieu-luc-hieu-qua-tiet-kiem-nang-luong-378734.html