Sức mạnh của bản 'Hiến pháp quốc tế về biển và đại dương'

Sức mạnh của bản 'Hiến pháp quốc tế về biển và đại dương'
2 giờ trướcBài gốc
9 năm cho một bản Công ước thiết lập trật tự hàng hải toàn cầu
Ngày 16/11/1994, mất tới 12 năm sau khi được ký kết, sau khi được đủ 60 nước thành viên phê chuẩn, Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) mới chính thức có hiệu lực. Nhưng chừng ấy chưa phải đã hết những gian nan để có được văn kiện pháp lý này.
Ngược dòng thời gian, ý tưởng về việc có một cơ sở pháp lý đủ mạnh để “điều phối” mọi hoạt động liên quan tới biển và đại dương đã có từ lâu. Hội nghị quốc tế đầu tiên về Luật Biển được Hội Quốc liên triệu tập năm 1930 tại La Hay (Hà Lan) để bàn luận, xây dựng các quy định quốc tế về quy chế lãnh hải, chống cướp biển và các nguyên tắc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của biển nhưng không đạt được kết quả cụ thể nào.
Năm 1958, Liên hợp quốc triệu tập Hội nghị lần thứ nhất về Luật Biển tại Genève (Thụy Sĩ) với 86 nước tham dự. Hội nghị này đã thông qua 4 Công ước quốc tế về Luật Biển, gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật; Công ước về thềm lục địa; Công ước về biển cả. Tuy nhiên một số nội dung quan trọng chưa được giải quyết, như chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua eo biển quốc tế, giới hạn vùng đánh cá, ranh giới ngoài của thềm lục địa.
Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Trong ảnh: Tàu Cảnh sát biển 8001 (Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3) làm nhiệm vụ tại khu vực nhà giàn DK1/15 thuộc cụm Phúc Nguyên. Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN
Ngày 15/3/1960, Liên hợp quốc tiếp tục triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ II tại Genève (Thụy Sĩ). Nhưng do có nhiều bất đồng nên hội nghị này tiếp tục không đạt được kết quả nào đáng kể. Cũng thời gian đó, Malta, một quốc gia ven biển nhỏ bé ở châu Âu, cụ thể là Đại sứ - Luật gia Arvid Pardo, đã khởi xướng đề nghị Liên hợp quốc bảo trợ một Hội nghị quốc tế soạn thảo Công ước Luật Biển. Đề nghị này ngay lập tức nhận được nhiều sự hưởng ứng, và năm 1973, Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ 3 vì thế tiếp tục được triệu tập.
Tuy nhiên, phải mất tới 5 năm trù bị (1967-1972), 9 năm thương lượng (1973-1982) và 11 khóa họp với sự tham gia của hàng trăm quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức phi chính phủ, tới tận ngày 30/4/1982, Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ 3 mới thông qua được Công ước mới về Luật Biển với 130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 17 phiếu trắng và 2 nước không tham gia bỏ phiếu.
Đến ngày 10/12/1982, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia tham gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica. Việc UNCLOS được ký kết là dấu mốc quan trọng của luật biển quốc tế, chấm dứt một thời gian dài các mâu thuẫn, tranh cãi và căng thẳng, thậm chí hỗn loạn trên các đại dương và vùng biển trên thế giới đồng thời biến UNCLOS trở thành một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc.
Cho đến nay, đã có 168 quốc gia tham gia công ước, trong đó 164 quốc gia là thành viên của LHQ, UNCLOS được ví như hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hóa các quy định mang tính tập quán. UNCLOS bao hàm tất cả những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tế về biển và đại dương thế giới.
Từ sự xuất hiện của UNCLOS 1982, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương đã được thành lập năm 1994, thực hiện chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động dưới biển sâu ngoài vùng thuộc quyền tài phán quốc gia, nhằm điều hành việc khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên của biển. Tòa án Luật Biển quốc tế cũng đã được thành lập năm 1996 và có quyền lực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển phát sinh từ việc giải thích và áp dụng Công ước.
Việt Nam - 30 năm thành viên có trách nhiệm của UNCLOS
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài hơn 3.260km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển, vì thế, Việt Nam luôn nhận thức rất rõ tầm quan trọng của biển. Minh chứng là Chiến lược biển Việt Nam 2018 đã xác định kinh tế biển, sử dụng bền vững biển là một trọng tâm lớn trong chiến lược phát triển của đất nước.
Việt Nam luôn cố gắng thực hiện nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước . Trong ảnh: Hướng dẫn xuồng đưa đoàn công tác đến đảo Đá Lát (Trường Sa). Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Cũng vì lẽ đó, Việt Nam đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của những văn bản pháp lý như UNCLOS đối với môi trường hòa bình, ổn định cũng như phát triển lâu dài của Việt Nam, nên từ trước khi UNCLOS 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy định liên quan của luật pháp quốc tế để xây dựng các văn bản pháp quy về biển; tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về Luật Biển và ngay sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước.
Đặc biệt, trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này trong đó nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Nghị quyết phê chuẩn khẳng định chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của UNCLOS và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế; yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
Nghị quyết ngày 23/6/1994 của Quốc hội Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến vấn đề biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Bên cạnh đó, ngày 21/6/2012, Việt Nam đã ban hành Luật Biển nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác, bảo quản các vùng biển, thềm lục địa và hải đảo của Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng tại một văn bản có giá trị hiệu lực cao.
Các cán bộ chiến sĩ Vùng 2 Hải quân cùng các nhà báo, phóng viên trên tàu Trường Sa 19 vẫy chào cán bộ chiến sĩ trên Nhà giàn Dk1/15 (Phúc Nguyên). Ảnh: Thành Đạt/TTXVN
Báo chí quốc tế, như trang mạng Fulcrum.sg của Singapore hồi năm 2022 đã có bài viết khẳng định Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm và đã có nhiều nỗ lực đáng kể để thông qua và thực thi các điều khoản của UNCLOS 1982. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã kêu gọi các nước khác trong khu vực Đông Nam Á tôn trọng và tuân thủ UNCLOS 1982. Đặc biệt, trong năm giữ vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, Việt Nam đã liên tục nhấn mạnh sự cần thiết của UNCLOS 1982 trong việc duy trì hòa bình khu vực và giải quyết các tranh chấp biển.
Trong những năm gần đây, Việt Nam ngày càng chủ động hơn trong việc tiên phong đề cao luật pháp quốc tế nói chung và UNCLOS nói riêng. Tháng 6/2021, Việt Nam khởi xướng thành lập Nhóm bạn bè UNCLOS, tạo diễn đàn để các nước trao đổi, thảo luận kinh nghiệm về áp dụng và giải thích UNCLOS trong quản lý và sử dụng biển, tìm kiếm và khuyến khích các cơ hội hợp tác, thúc đẩy hơn nữa các cam kết thực hiện UNCLOS trong LHQ. Đến nay Nhóm đã có gần 120 nước từ tất cả các khu vực địa lý, bao gồm cả các quốc gia phát triển, đang phát triển và các nước đảo nhỏ.
Lực lượng hải quân bảo vệ quần đảo Trường Sa được trang bị phương tiện tuần tra hiện đại, luôn đề cao cảnh giác, tuần tra theo dõi, nắm chắc tình hình trên biển, dự báo đúng tình hình để có kế hoạch và chủ động ứng phó với mọi diễn biến. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Tháng 10/2022, Việt Nam cùng với 15 nước khác giới thiệu sáng kiến về việc xin ý kiến tư vấn của Tòa án Công lý quốc tế để làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các nước về biến đổi khí hậu trên cơ sở các điều ước quốc tế liên quan, bao gồm cả UNCLOS. Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam, việc thúc đẩy sáng kiến sẽ có ý nghĩa quan trọng, góp phần cùng cộng đồng quốc tế tăng cường ứng phó với biến đổi khí hậu, bao gồm thông qua việc sử dụng và quản lý biển và đại dương một cách bền vững.
Hà Anh
Nguồn Công Luận : https://congluan.vn/suc-manh-cua-ban-hien-phap-quoc-te-ve-bien-va-dai-duong-post318221.html