Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý được vinh danh giải Nhất cuộc thi Thơ Thanh Hóa năm 2024 với bài thơ “Xứ Thanh”.
Có một xứ Thanh "duy tình"
Dưới con mắt của nhà thơ, đại tá Nguyễn Hữu Quý, “Xứ Thanh” hiện lên mộc mạc, thô sơ. “Yêu bạn như yêu mình/ Xứ Thanh duy tình lắm nhé/ ngọn rau má bò sang bàn tay mẹ/ lên ngôi trong ca dao”; “Dân dã tre pheo áo trạng gió lùa/ tiếng cười hi ha bay xa như rứa/ mấu đòn gánh Bắc miền Trung gió lửa/ kĩu kịt giang sơn những thế kỉ nhọc nhằn”.
Nhưng cũng dữ dằn, quyết liệt: “Sông Mã phi xuống từ trời cao/ vó thác dập dồn lồng ngực/ câu hò ngàn năm thao thức/ bao kiếp người đi trong dô tả dô tà”. Sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cao đẹp: “Trùng điệp những đoàn quân/ nối giọng quê choa vào trận mạc/ bao nhiêu nghĩa trang mộ bia bát ngát/ khắc tên Thanh Hóa vào nắng mưa”.
Rõ ràng, bài thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Thanh theo cách rất riêng. Nhà thơ Vũ Quần Phương đánh giá: "Cây rau má cứu đói thời gian khổ, bò đến bàn tay bà mẹ nghèo thì thành câu hát. Câu hò đẫm mồ hôi dô tả dô tà đã có tự nghìn năm vẫn đủ sức làm người thời nay khó ngủ. Những ý thơ ca ngợi thành tựu mọi mặt của Thanh Hóa bỗng nhiên chìm vào những ngẫm nghĩ trung hậu sâu nặng về đời".
Phải chăng bởi Nguyễn Hữu Quý không phải người Thanh Hóa nên anh lại có một cách nhìn rất riêng và đặc biệt? Bài thơ xứng đáng được đứng ở vị trí cao nhất của cuộc thi. Ngoài cái nhìn xuyên suốt trong hành trình đất và người xứ Thanh, người đọc thấy rõ, phải yêu Thanh Hóa lắm thì Nguyễn Hữu Quý mới làm bài thơ rất tình, rất thơ đến vậy.
“Duy tình” bởi xứ Thanh mình thật đẹp. Trong 11 bài thơ được giải chính thức, có 7 bài thơ viết về địa danh cụ thể, đó là: Về thăm Bến En (Hà Văn Đạt), Trên đỉnh núi Nưa (Đinh Ngọc Lâm), Nơi Từ Thức gặp tiên (Đinh Ngọc Diệp), Về Nga Sơn (Mai Hương), Về hang Co Phương (Trường Cửu), Thành phố mình thao thức đợi bình minh (Hạnh Lê)... Nhưng, dù cách nhìn nào thì các tác giả cũng đều miêu tả xứ Thanh quê mình đẹp như một xứ sở “thần tiên”.
Bến En hay bờ tóc em?
Ta vương vào đâu...
Chẳng biết nữa!
Nhẩn nha trong lòng hương hoa cỏ
Hồn như giong thuyền lạc
chốn mơ...
“Về thăm Bến En” của Hà Văn Đạt giúp chúng ta hình dung ra một vẻ đẹp tồn tại theo thời gian, như “cây Lim xanh/ ngàn năm sừng sững/ thẳng trực/ bất khuất/ như con người nơi đây/ bao đời vẫn vậy". Đặc biệt, Hà Văn Đạt biến hóa trong từng câu thơ. Nhìn hồ Sông Mực, thấy nó biến thành sự hài hòa của âm thanh giữa non và nước và các hòn đảo như những giọt trời xanh vừa sa xuống. Ở chỗ khác thì anh thành người bị thiên nhiên “bỏ bùa”, là cô gái múa xòe “gây mê” anh bằng nụ cười khói sương, e ấp, cần cong rượu cần anh nhìn ra vũ điệu mà tự say.
Và một Đinh Ngọc Lâm dựng lại hình ảnh và khí thế của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248 “Trên đỉnh núi Nưa”: “Gươm thiêng mài vẹt đại ngàn/ Bóng voi lâm trận bạt ngàn quân reo/ Lá thu ối đỏ một chiều/ Giặc Ngô hốt hoảng hồn xiêu, phách rời”...
Đinh Ngọc Diệp kể lại câu chuyện về “Nơi Từ Thức gặp tiên” và đặt ra hai ngả rẽ: ngả tình yêu và ngả quê hương. Có lúc, anh thiên về tình yêu, có lúc anh lại bảo tình yêu nó hay bịt mắt, đánh lừa. Bốn câu cuối phần nào cho thấy, dù cõi tiên hay cõi thực, suy cho cùng, tình yêu vẫn luôn có tiếng nói riêng, có tín hiệu phát ra, “đánh lửa” để “đá rực rỡ”:
Khát yêu của con tim làm cho
đá rực rỡ
Đêm cuống lên nồng nàn
Đẹp như nơi Từ Thức.
Tình yêu bịt mắt nhau đánh lửa.
Nếu Mai Hương duyên dáng với “Về Nga Sơn”, Trường Cửu thắp nén nhang cho 11 dân công hy sinh khi giặc Pháp ném bom lấp cửa hang ngày 2/4/1953 trong bài thơ “Về hang Co Phương”, thì tôi rất thích Hạnh Lê với bài “Thành phố mình thao thức đợi bình minh”. Rõ ràng có cái ngọt ngào, có cái đắm say của người viết ẩn sau từng tên phố, tên phường... Nhiều câu thơ liệt kê nhưng lại rất dễ chịu, thậm chí đáng yêu:
Trăng hẹn mình nơi Đỗ Đại,
Vệ Yên,
Ghé Chi Lăng gửi thăm người
Hàm Tử
Gió Lê Hoàn nhắc em về
gánh nhớ
Mang bán rao ở Nguyễn Trãi,
Tây Thành.
Chỉ có một tình yêu, một sự đắm say với xứ Thanh thực sự thì các tác giả mới có nhiều câu thơ hay và tràn đầy xúc cảm như vậy.
Và một tình yêu đặc biệt với cội nguồn
Trong một lần mới đây, khi có dịp trò chuyện cùng nhà thơ Nguyễn Duy, ông nói về ý định tổ chức một đêm thơ có tựa đề “Quê nhà ở phía ngôi sao” và tái bản 2 tập thơ “Mẹ và em”, “Quê nhà ở phía ngôi sao” trong năm 2025. Bởi đây là năm gắn liền với nhiều sự kiện lớn của Thanh Hóa. Với ông, Thanh Hóa lúc nào cũng tựa cảm giác: “Có gì lạ quá đi thôi/ khi gần thì mất... xa xôi lại còn...”.
Nhà thơ Nguyễn Duy kể về những ngày ở Thanh Hóa: "Níu váy bà đi chợ Bình Lâm...", đó là bà ngoại tôi, dù một chữ bẻ đôi cũng không biết, nhưng lại thuộc rất nhiều ca dao, truyện tiếu lâm, cổ tích, Truyện Kiều... Là mẹ tôi, những đêm trăng, mẹ trải chiếu ra bên bờ sông Mã, chúng tôi quây quần ngồi nghe mẹ kể chuyện: “Bao giờ cho tới tháng năm/ Mẹ ta trải chiếu ta nằm đếm sao”... Và cha tôi, làm men, nấu rượu, nổi tiếng, người đã tình nguyện đi dân công hỏa tuyến “Đẩy xe thồ ngang dọc đỉnh Tà Cơn”.
Có lẽ ký ức là một phần không thể thiếu ở mỗi người. Dù ngang dọc khắp Nam - Bắc, đi hết nước này sang nước khác, nhưng đọng lại trong bạn đọc về thơ Nguyễn Duy là ý thức cội nguồn: “Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội/ Có một miền quê trong đi đứng nói cười”.
Trở lại cuộc thi “Thơ Thanh Hóa” năm 2024, có một bài thơ tôi rất thích đó là “Thợ sơn tràng” của Hoàng Quốc Cảnh. Tôi tiếp xúc nhiều với nhà thơ, đọc không ít bài thơ của anh, nhưng chưa bao giờ thấy “những đường viền của tài năng” theo cách nhà thơ Vũ Quần Phương nhận định về Hoàng Quốc Cảnh, cho đến khi đọc 2 bài thơ được giải Nhì: “Thợ sơn tràng” và “Dưới kia là núi”. “Thợ sơn tràng” (những người khai thác rừng bằng công cụ thô sơ) gợi nhớ một giai đoạn thơ “đến nơi tiền tuyến viết về những người tiền tuyến”, ở đó là những con người “Da sạm nắng, ngực vồng như cánh ná/ Gồng bè vượt thác ghềnh sông Mã”, “Đi bè khi giáp hạt/ Ngủ rừng/ thức cùng trăng, sao/ câu hò vượt thác!”... Thơ thiên về kể sự kiện và thành tích những người thợ sơn tràng, nhưng cho người đọc thấy ngoài không khí lao động hăng say còn là tính cách “sắc lẹm”, sự miệt mài của người xứ Thanh, “ngược rừng La Hán, Cành Nàng/ đem gỗ, luồng về xuôi”...
Những thợ sơn tràng thô sơ, không mang dấu vết của một thứ công cụ hiện đại nào, hồn nhiên, hăng hái góp phần xây dựng thời đại văn minh.
Cuối cùng, điều tôi muốn nói là dù tất cả các bài thơ đều viết về Thanh Hóa, đều mang cảm hứng ngợi ca,... nhưng đọc lại không có cảm giác khen quá mức, tô hồng quá đà, ngợi ca lấy được... Những bài thơ đọng lại vẫn là cảm xúc chân thực của các tác giả, nó như là máu, là thịt, là tâm hồn của người xứ Thanh; là tình yêu, là sự nhớ nhung mảnh đất xứ Thanh nơi mình đã đến, đã dừng lại để nghĩ suy...
Bài và ảnh: Bảo An