Không còn là giai đoạn “trải thảm đỏ” bằng mọi giá, chính sách ưu đãi đầu tư đang đứng trước một cuộc tái cấu trúc toàn diện, chuyển từ dựa trên quy mô vốn sang dựa trên chất lượng và hiệu quả thực chất. Các đại biểu Quốc hội đã thẳng thắn chỉ ra những bất cập của cơ chế cũ và đề xuất một khung khổ pháp lý mới chặt chẽ hơn, nơi ưu đãi đi kèm với kỷ luật, hậu kiểm và chế tài tài chính nghiêm khắc đối với các cam kết không được thực hiện.
Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi)
“Hội chứng” ưu đãi tràn lan và những hệ lụy tài khóa
Nhìn lại chặng đường thu hút đầu tư vừa qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng cái giá phải trả cho các chính sách ưu đãi thiếu chọn lọc cũng không hề nhỏ. Tại nghị trường, nhiều đại biểu Quốc hội đã không ngần ngại chỉ ra những bất cập đang làm xói mòn cơ sở tài khóa quốc gia.
Phân tích sâu về thực trạng này, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP. Hồ Chí Minh) cho biết, nhiều năm qua, Việt Nam đã chứng kiến tình trạng “đua nhau ưu đãi” giữa các địa phương để thu hút nhà đầu tư, đặc biệt trong các lĩnh vực như bất động sản, dệt may hay lắp ráp đơn giản. Hệ quả nhãn tiền là nguồn thu ngân sách bị xói mòn nghiêm trọng, trong khi giá trị gia tăng mà các dự án này mang lại không tương xứng.
Sự dàn trải và thiếu trọng tâm trong danh mục ưu đãi cũng là một vấn đề nổi cộm được đại biểu Phan Thị Mỹ Dung (Tây Ninh) chỉ ra: việc liệt kê “gần như là tất cả các ngành nghề của ngành kinh tế đất nước cũng được ưu đãi” trong dự thảo hiện tại sẽ dẫn đến việc nguồn lực ngân sách bị phân tán, không tạo được dấu ấn đột phá và không đủ sức khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các ngành chiến lược thực sự.
Nghiêm trọng hơn, cơ chế cấp ưu đãi hiện tại đang bộc lộ lỗ hổng lớn về giám sát tài chính. Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung đã nêu lên một nghịch lý đau lòng, nhiều doanh nghiệp FDI “kê khai lỗ kéo dài hàng năm nhưng vẫn được ưu đãi thuế”, trong khi tình trạng chuyển giá vẫn khó kiểm soát.
Thậm chí, ngay cả với cơ chế ưu đãi đặc biệt dành cho các “đại bàng” (dự án vốn từ 3.000 đến 6.000 tỷ đồng trở lên), đại biểu Hà Sĩ Đồng (Quảng Trị) cũng lo ngại rằng, nếu ưu đãi lớn mà không kèm điều kiện ràng buộc về chuyển giao công nghệ thì Việt Nam sẽ “mãi làm công xưởng”. Sự thiếu vắng các cơ chế giám sát hiệu quả dựa trên kết quả thực tế cũng là điều được đại biểu Đào Chí Nghĩa (Cần Thơ) nhấn mạnh, dẫn đến nguy cơ lãng phí nguồn lực ưu đãi của Nhà nước.
Ưu đãi phải được “định lượng” bằng hiệu quả thực chất
Từ các ý kiến thảo luận, có thể thấy một tư duy mới đang hình thành: ưu đãi đầu tư không phải là “món quà” miễn phí, mà là một hợp đồng kinh tế có điều kiện giữa Nhà nước và nhà đầu tư, được đo lường bằng các chỉ số hiệu quả thực chất thay vì chỉ là những lời hứa hẹn trên giấy.
Các đại biểu thống nhất rằng cần phải chuyển dịch tiêu chí ưu đãi từ “lượng” sang “chất”. Đại biểu Lê Hoàng Anh (Gia Lai) đề xuất bổ sung các tiêu chí định lượng cụ thể vào luật để làm căn cứ xét ưu đãi, như: tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D), tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo, mức phát thải carbon, tỷ lệ lao động chất lượng cao.
Về khía cạnh chuyển giao công nghệ - chìa khóa để nâng tầm nền kinh tế, đại biểu Hà Sĩ Đồng (Quảng Trị) đưa ra kiến nghị rất cụ thể và mạnh mẽ rằng, các dự án được hưởng ưu đãi đặc biệt phải cam kết “chuyển giao công nghệ đạt cấp độ 2 trở lên và đào tạo ít nhất 200 lao động bậc cao cho Việt Nam mỗi năm”.
Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung (Tây Ninh) cũng đề xuất bổ sung yêu cầu về hiệu quả lan tỏa, chỉ áp dụng ưu đãi đối với các dự án có cam kết tạo liên kết chuỗi và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước; Để chính sách ưu đãi thực sự trở thành đòn bẩy cho các ngành mũi nhọn, cần tập trung nguồn lực ưu đãi cao nhất vào các lĩnh vực chiến lược như bán dẫn, AI, trung tâm dữ liệu, năng lượng tái tạo, hydrogen, công nghệ sinh học... thay vì dàn trải như hiện nay.
Điểm đột phá nhất trong tư duy quản lý được thể hiện qua các đề xuất về cơ chế giám sát và chế tài xử lý. Các đại biểu thống nhất rằng, thời kỳ “tiền kiểm” lỏng lẻo và “hậu kiểm” bỏ ngỏ phải chấm dứt. Một kỷ luật tài chính mới đang được thiết lập, nơi các cam kết của nhà đầu tư sẽ bị giám sát chặt chẽ và vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm minh bằng công cụ kinh tế.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân đề nghị đưa thẳng vào luật nguyên tắc cốt lõi: ưu đãi và hỗ trợ đầu tư phải gắn với cam kết và kết quả thực hiện của nhà đầu tư. Nếu không đạt yêu cầu, cơ quan nhà nước có quyền điều chỉnh, thu hồi hoặc yêu cầu bồi hoàn. Thậm chí, một chế tài tài chính rất mạnh mẽ đã được đại biểu Hà Sĩ Đồng đưa ra đối với các dự án ưu đãi đặc biệt: nếu nhà đầu tư không hoàn thành cam kết về chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, thì ngoài việc bị thu hồi ưu đãi, họ còn có thể bị xử lý phải “bồi hoàn gấp đôi số tiền ưu đãi đã được hưởng”.
Để tránh tình trạng ưu đãi không đúng đối tượng, đại biểu Phan Thị Mỹ Dung cũng kiến nghị cần có sự phân biệt rõ ràng về bản chất giữa “ưu đãi đầu tư” (cơ chế giảm gánh nặng thuế, đất đai) và “hỗ trợ đầu tư” (cơ chế tăng năng lực như đào tạo, hạ tầng) để đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả của chính sách.
Phiên thảo luận về dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi đã cho thấy quyết tâm chính trị lớn của các đại biểu Quốc hội trong việc tái cấu trúc lại công cụ thu hút đầu tư quan trọng nhất của quốc gia. Việc chuyển từ ưu đãi dựa trên quy mô sang ưu đãi dựa trên hiệu quả thực chất, đi kèm với các cơ chế hậu kiểm và chế tài tài chính nghiêm khắc như thu hồi, bồi hoàn, là một bước tiến lớn về tư duy quản trị kinh tế. Điều này không chỉ giúp bảo vệ nguồn lực tài khóa quốc gia, tránh lãng phí, mà còn tạo ra một môi trường đầu tư minh bạch, công bằng, nơi chỉ những dự án thực sự mang lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế mới xứng đáng được hưởng các “chiếc bánh” chính sách.
BỘ TÀI CHÍNH TIẾP THU, GIẢI TRÌNH 5 NHÓM VẤN ĐỀ NÓNG TRONG LUẬT ĐẦU TƯ SỬA ĐỔI
Phát biểu tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội về dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã làm rõ 5 nhóm vấn đề quan trọng nhận được nhiều sự quan tâm.
Thứ nhất, về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, Bộ trưởng khẳng định, các quy định về phân cấp thẩm quyền từ Quốc hội cho Thủ tướng đối với 8 nhóm dự án (như di dân tái định cư quy mô lớn, điện hạt nhân) là sự cập nhật từ các luật hiện hành (Luật 90, Luật Đất đai 2024, Luật Lâm nghiệp), nhằm đảm bảo tính đồng bộ và cải cách thủ tục hành chính.
Thứ hai, về việc cấm kinh doanh thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, Bộ trưởng cho biết, dự thảo đã tiếp thu, bổ sung quy định cấm, đồng thời mở rộng phạm vi cấm sang cả khí N₂O và các chất hướng thần khác. Về điều khoản chuyển tiếp cho các nhà máy đang sản xuất xuất khẩu, Bộ trưởng giải thích, đây là giải pháp cần thiết để tránh các vụ kiện pháp lý quốc tế, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư đã được cấp phép trước khi có Nghị quyết 173 của Quốc hội.
Thứ ba, Bộ trưởng nhấn mạnh nỗ lực cắt giảm ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Dự kiến tối thiểu 50 ngành nghề sẽ được cắt giảm, chuyển mạnh sang cơ chế hậu kiểm bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn, vượt xa mục tiêu ban đầu là 25 ngành nghề.
Thứ tư, về Quỹ hỗ trợ đầu tư, Bộ trưởng khẳng định, việc thành lập quỹ này là cần thiết để thực hiện cam kết thuế tối thiểu toàn cầu và hỗ trợ các nhà đầu tư chiến lược, đã được Quốc hội bàn thảo kỹ lưỡng và không gây trùng lặp với các quỹ khác.
Ngoài ra, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng làm rõ các quy định về tiêu chí định lượng trong chấp thuận chủ trương đầu tư (như quy mô diện tích rừng, đất lúa) là các quy định hiện hành, không phải nội dung mới. Đồng thời, Bộ trưởng cũng giải thích về thời gian hoạt động của dự án đầu tư có sử dụng đất, khẳng
định sẽ được tính từ thời điểm nhà đầu tư được bàn giao đất trên thực địa theo quy định tại nghị địnhhướng dẫn.
Trần Hương