Tại sao lại là Vedanā và Vedanā là gì?

Tại sao lại là Vedanā và Vedanā là gì?
3 giờ trướcBài gốc
Ngày nay các khóa thiền Vipassana theo truyền thống Sayagyi U Ba Khin do ngài Goenka hướng dẫn đã lan rộng khắp toàn cầu, đem lại nhiều lợi lạc cho hành giả thuộc nhiều truyền thống tín ngưỡng cũng như phi tín ngưỡng, muốn tìm kiếm con đường thoát khổ theo giáo pháp của Đức Phật. Theo S.N.Goenka, giáo lý và thực hành phải luôn sóng đôi. Vì vậy, ngoài việc đào tạo các “thiền sư phụ tá”, năm 1985 ông đã thành lập Viện Nghiên cứu Vipassana (Vipassana Research Institute) tại Dhamma Giri, Igatpuri để nghiên cứu, xuất bản tài liệu về thiền Vipassana và tác dụng của pháp thiền này.
Loạt bài sau đây được chuyển ngữ từ các tham luận trong tập Kỷ yếu Hội thảo về Vedanā và Sampajañnã, do Viện Nghiên cứu Vipassana ấn hành, 1990. Hội thảo này là một cột mốc quan trọng trong việc công nhận thiền Vipassana là tinh hoa của giáo lý Đức Phật, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc, tường tận về hai thuật ngữ quan trọng này từ kinh điển Pāli và truyền cảm hứng cho các thiền sinh và học giả quan tâm đến Phật giáo. Giữa ngổn ngang trong việc giới thiệu các phương pháp “chữa lành” mệnh danh là thiền Phật giáo, GN xin giới thiệu tài liệu căn bản này đến quý độc giả, qua bản dịch của dịch giả đồng thời là hành giả Vipassana Chân Thông Chiếu, dành riêng cho GN.
***
Tôi nhớ lần đầu tiên được gặp Sayagyi U Ba Khin. Tôi đã chấp thủ mạnh mẽ tín ngưỡng và hoài nghi của mình về lời dạy của Đức Phật. Sayagyi biết tôi là một nhà lãnh đạo của cộng đồng Ấn Độ giáo ở địa phương. Ngài hỏi tôi, “Các bạn theo đạo Hindu có phản đối gì đối với sīla (giới – lối sống đạo đức), samādhi (định – sự làm chủ tâm trí) và pañnã̄ (tuệ để thanh lọc tâm trí không)?”. Làm sao tôi có thể phản đối được! Làm sao có ai có thể phản đối được! Ngài tiếp tục, “Này, đây là những gì Đức Phật đã dạy. Đây là tất cả những gì tôi quan tâm và đây là tất cả những gì tôi sẽ dạy cho anh”. Sự giải thích của Sayagyi về Dhamma mang tính phổ quát và không mang tính tôn giáo. Ngài không quan tâm tới vấn đề tôi là một người theo đạo Hindu.
Khóa học Vipassana đầu tiên đã giới thiệu cho tôi những lời dạy của Đức Phật và làm thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Tôi như bị nam châm cuốn hút trước cách giảng dạy hợp lý, thực tế, thực dụng, phổ quát và không mang tính chất tông phái của ngài. Trong đó không có gì có thể phản đối được. Tôi đã được nghe và nói về việc diệt trừ phiền não và thanh lọc tâm trí. Khi tôi bắt đầu quan sát các cảm giác, ban đầu có những lúc nghi ngờ, “Điều này sẽ giúp tôi như thế nào?”. Nhưng ngay sau đó tôi nhận ra rằng bằng cách quan sát các cảm giác, tôi sẽ đi đến gốc rễ của phiền não. Tôi thực sự đang đi tới mục tiêu giải thoát hoàn toàn.
Bất cứ điều gì Sayagyi dạy tôi không chỉ đơn thuần là để phát triển đức tin hay để thỏa mãn tri thức, mặc dù cả hai đều quan trọng. Ngài đã dạy tôi cách nhận biết sự thật ở cấp độ kinh nghiệm. Nếu có ai đó cố gắng thuyết phục tôi về những lời dạy của Đức Phật bằng những thảo luận mang tính trí thức, logic hay suy luận thì tôi sẽ không bị thuyết phục, vì tôi hoàn toàn hài lòng với đức tin của chính mình. Điều đã thuyết phục tôi và cho tôi kết quả ngay ở đây và bây giờ là trải nghiệm về sự thật thông qua các cảm giác của thân thể. Công cụ hữu hình này đã cho tôi niềm tin rằng tôi thực sự có thể trở thành sthitaprajnã (ṭhitapañnõ), mục tiêu ấp ủ của mọi người theo đạo Hindu.
Dhamma xóa bỏ đau khổ và mang lại hạnh phúc. Ai là người ban cho niềm hạnh phúc này? Không phải Đức Phật mà là Dhamma, sự hiểu biết về vô thường (anicca) bên trong thân thể, mới mang lại hạnh phúc này. Đó là lý do tại sao bạn phải hành thiền và ý thức về vô thường một cách liên tục.
Sayagyi U Ba Khin
Càng thực hành, tôi càng tin chắc rằng Đức Phật là nhà khoa học hàng đầu của tâm và thân; nhà phân tích hàng đầu về sự thật về đau khổ và sự diệt trừ đau khổ. Và điều khiến ngài trở thành một nhà khoa học vô song là khám phá ra rằng ta (tṛṣṇā, ái/ tham ái/ tham dục/ tham-sân) xuất hiện, phản ứng với vedanā (thọ/ cảm thọ/ cảm nhận/ cảm giác). Tôi đã nghiên cứu lời dạy của các vị thầy tâm linh Ấn Độ trước và sau Đức Phật, những người cũng chấp nhận ta là nguyên nhân của khổ, nhưng đối với họ ta phát sinh chỉ vì các đối tượng giác quan. Họ bỏ lỡ mối liên hệ quan trọng nhất: không ai trong số họ nói về vedanā và mối quan hệ của nó với ta. Họ luôn luôn cho rằng các đối tượng của giác quan là nguyên nhân của ta. Talà thèm muốn. Mong muốn tiếp tục hoặc có được điều dễ chịu và khao khát loại bỏ hoặc đẩy lùi điều khó chịu. Do đó ta thực sự có cả hai nghĩa thèm muốn và chán ghét (tham và sân).
Việc Đức Phật khám phá ra nguyên nhân thực sự của ta nằm trong vedanā là món quà vô song của Đức Phật dành cho nhân loại. Với một khám phá này, ngài đã cho chúng ta chìa khóa để mở ra cánh cửa giải thoát ngay trong chính chúng ta. Những người khác tuyên bố saāyatana paccayā ta (các giác quan làm phát sinh tham sân); Đức Phật đã khám phá và tiết lộ rằng vedanā paccayā ta (các cảm giác làm phát sinh tham-sân), có nghĩa là phiền não phát sinh ở cấp độ của vedanā và phản ứng đối với vedanā. Điều hợp lý là nếu ta phát sinh để phản ứng đối với vedanā, thì bất kỳ nỗ lực nào để đạt đến gốc rễ của ta và diệt trừ ta phải bao gồm sự hiểu biết về vedanā, kinh nghiệm về nó và kiến thức về cách nó gây ra thèm muốn và chán ghét, và trí tuệ để biết nó có thể được sử dụng như thế nào để diệt trừ ta.
“Một đệ tử của Đức Phật, với sự tập trung, ý thức và sự hiểu biết thấu đáo thường xuyên về vô thường, bằng trí tuệ nhận biết được các cảm giác, sự phát sinh, đoạn diệt của chúng và con đường dẫn đến sự kết thúc của chúng.
Một thiền giả đã đạt đến chỗ tận cùng (đã trải nghiệm toàn bộ lĩnh vực) của các cảm giác (và đã vượt ra ngoài) được giải thoát khỏi tham ái, được giải thoát hoàn toàn”1.
Đây là lý do tại sao Đức Phật đã thực hành và giảng dạy việc hành thiền bằng cách ý thức về tâm và thân (nāmarūpa, danh và sắc). Rūpa bao gồm kāya (thân); và vedanā được cảm nhận trên kāya. Nāma bao gồm tâm (tâm thức) và các pháp (tâm sở) phát sinh trên tâm. Vedanā cũng là một cetasika (tâm sở).
Khi Đức Phật nói, sabbe dhammā vedanā samosaraā, điều đó có nghĩa là kinh nghiệm của tất cả các tâm sở bao gồm và không thể tách rời vedanā. Do đó, theo sự hiểu biết của tôi về lời dạy của Đức Phật, không những kāyānupassanā (phương pháp niệm thân hay quan sát thân) và vedanānupassanā (niệm thọ hay quan sát cảm giác) liên quan đến nhận thức về vedanāvedanā mà còn tạo thành một phần không thể tách rời của dhammānupassanā (niệm pháp) và cittānupassanā (niệm tâm).
Người hành thiền, dù thực hành kāyānupassanā hay vedanānupassanā hay cittānupassanā hay dhammānupassanā, vẫn tiếp tục ý thức về vedanā. Vị ấy nhận ra hiện tượng sinh khởi của pháp (samudayadhammānupassī) và hiện tượng đoạn diệt của các pháp (vayadhammānupassī) bằng cách duy trì ý thức về vedanā với sự hiểu biết về bản chất vô thường của nó.
Vì vậy, vị ấy không cho phép ta phát sinh để phản ứng với vedanā: vị ấy không phản ứng bằng ta của sự thèm muốn đối với một cảm giác dễ chịu (lạc thọ) cũng như không phản ứng bằng ta của sự chán ghét đối với một cảm giác khó chịu (khổ thọ). Một thiền giả duy trì upekkhā (sự bình tâm hay tâm xả) dựa trên sự hiểu biết về anicca (vô thường).
Cuộc hành trình nội tâm của tôi đã cho tôi thấy rõ ràng rằng, một khuôn mẫu hành vi được hình thành trong bóng tối của sự vô minh, nơi người ta tiếp tục phản ứng bằng sự thèm muốn và chán ghét, một cách có ý thức hay vô ý thức, đối với những cảm giác của thân. Do đó, người ta trở thành nô lệ của khuôn mẫu hành vi của họ và tiếp tục phản ứng trước các cảm giác ở mức độ sâu nhất. Các kilesa anusaya (phiền não tùy miên/ tiềm ẩn/ ngủ ngầm) là núi lửa đang ngủ yên, dạng hành vi tiềm ẩn, phản ứng mù quáng đối với cảm giác.
Khám phá của Đức Phật giúp một thiền giả thoát ra khỏi khuôn mẫu hành vi mù quáng này. Trong số rất nhiều kỹ thuật thiền của Ấn Độ và những nơi khác trên thế giới mà tôi đã gặp gỡ hoặc đã nghe nói về, không có phương pháp nào đi sâu vào căn nguyên của những phiền não của tham ái và sân hận và diệt trừ chúng. Không có phương pháp nào khác để loại bỏ ngay cả những khuynh hướng tiềm ẩn của sự thèm muốn, chán ghét và vô minh được giải thích một cách rõ ràng như vậy. “Hãy xóa bỏ khuynh hướng tiềm ẩn của sự thèm muốn (tham) bằng cách sử dụng các cảm giác dễ chịu (bằng cách quan sát một cách bình tâm các cảm giác dễ chịu trong sự thấu hiểu được bản chất hay thay đổi của chúng), xóa bỏ khuynh hướng tiềm ẩn của sự chán ghét (sân) bằng cách sử dụng các cảm giác khó chịu và loại bỏ khuynh hướng vô minh tiềm ẩn bằng cách sử dụng các cảm giác trung tính”2. Tôi nhận thức được rằng, đây là một đóng góp độc đáo của Đức Phật cho nhân loại.
Câu hỏi đặt ra bây giờ là cái mà chúng ta gọi là vedanā là gì? Rõ ràng từ những lời của Đức Phật rằng vedanā (thọ) là một trong bốn uẩn (nhóm/thành phần) của tâm (ba nhóm tâm còn lại là sañnã̄, sakhāra viñnã̄a – tưởng, hành và thức) và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thoát khỏi khổ. Đức Phật đã coi trọng vedanā mà người ta cảm nhận được trên thân thể. Vedanā mà người ta cảm thấy trên thân được trải nghiệm bởi vedanā khandha (thọ uẩn) của nāma (danh/ tâm), đúng hơn, nó là vedanā khandha của nāma. Rūpa (thân) tự nó không thể trải nghiệm những cảm giác phát sinh trên nó. Đối với phương pháp thiền để giải thoát khỏi đau khổ, cảm giác của thân là quan trọng. Điều này không có nghĩa là cảm giác của tâm (somanassadomanassa – hỷ thọ và ưu thọ hay vui và buồn) bị bỏ qua, mà nó diễn tiến đồng thời.
Truyền thống mà Pháp vị cam lồ từ ái giải phóng con người khỏi mọi khổ đau được gọi là truyền thống của Ledi Sayadaw, thực ra là truyền thống của Đức Phật. Truyền thống này coi trọng tất cả những cảm giác mà người ta cảm nhận được trên thân thể. Khi tôi tham gia khóa học đầu tiên của mình dưới chân ngài Sayagyi U Ba Khin, tôi đã cực kỳ bị thu hút bởi khía cạnh thiền độc đáo này. Khóa học Vipassana đầu tiên của tôi đã cho tôi thấy rằng kiến thức trí năng đơn thuần về bản chất vô thường của hiện tượng tâm và thân chỉ có thể thanh lọc tâm ở một mức độ nào đó. Nó không thay đổi chúng ta ở sâu bên trong tâm, nơi chúng ta vẫn là nô lệ của các khuôn mẫu hành vi của mình và tiếp tục phản ứng trong sự vô minh (thiếu hiểu biết) hoàn toàn.
Tôi đã hưởng được rất nhiều lợi ích từ phương pháp thiền này nên tôi bắt đầu đọc những lời dạy của Đức Phật theo lời khuyên của thầy tôi. Tôi cũng tò mò muốn tìm hiểu tại sao Ấn Độ lại đánh mất những lời dạy cao quý này. Từ nhỏ tôi đã được nghe nói rằng Đức Phật kết hợp những ưu điểm từ truyền thống của Ấn Độ giáo trong giáo lý của Ngài và sau đó thêm ảo tưởng vào, và Ngài chẳng phát hiện ra điều gì mới.
Kinh nghiệm của tôi hóa ra lại trái ngược với niềm tin này. Tôi thấy những lời Phật dạy rất có ích. Điều này dẫn đến một cuộc khám phá sâu hơn để tìm ra sự thật về những tuyên bố này. Đọc những lời của Đức Phật trong Tipiaka (Tam tạng Thánh điển) đã cho tôi rất nhiều niềm vui! Các thông tin trước đó của tôi hóa ra đã sai lạc biết bao! Nó cho thấy sự nhấn mạnh của Đức Phật về kinh nghiệm thực tế về sự thật. Làm thế nào mà một lời dạy có căn cứ vững chắc trong thực tế lại có thể dẫn đến ảo tưởng? Tôi không tìm ra được dấu vết của sự sai lầm nào trên con đường này.
Đọc những lời của Đức Phật trong Tipitạka (Tam tạng Thánh điển) đã cho tôi rất nhiều niềm vui! Các thông tin trước đó của tôi hóa ra đã sai lạc biết bao! Nó cho thấy sự nhấn mạnh của Đức Phật về kinh nghiệm thực tế về sự thật. Làm thế nào mà một lời dạy có căn cứ vững chắc trong thực tế lại có thể dẫn đến ảo tưởng? Tôi không tìm ra được dấu vết của sự sai lầm nào trên con đường này.
Các từ bhāvito bahulīkato – nghĩa là hãy hiểu biết từ kinh nghiệm của chính mình và từ đó đạt được và gia tăng kiến thức được lặp lại nhiều lần trong Tipiaka. Đức Phật nói đi nói lại, “jāna, passa chính mình biết, biết bằng kinh nghiệm của chính mình. Kinh nghiệm thực tế về sự thật, như nó vốn có, đảm bảo rằng không có ảo tưởng hoặc sai lầm, không có trí tưởng tượng hoặc bất kỳ niềm tin mù quáng nào trên con đường này. Những lời của Đức Phật cũng xác nhận kinh nghiệm của tôi rằng cảm giác vật lý của thân là vô cùng quan trọng đối với nghệ thuật giải thoát khỏi mọi đau khổ.
Khi miêu tả Khổ (dukkha) Ngài nói:“Này các Tỳ-kheo, khổ là gì? Này các Tỳ-kheo, nếu có bất kỳ loại đau đớn nào thuộc về thân, bất kỳ loại cảm giác khó chịu trên thân nào hoặc bất kỳ loại cảm giác đau đớn hay khó chịu nào do sự xúc chạm với thân thể này, này các Tỳ-kheo, được gọi là khổ”3.
Khi miêu tả Ưu (domanassa), Ngài nói: Hỡi các Tỳ-kheo, ưu sầu là gì? Nếu có bất kỳ loại đau đớn nào về tinh thần, bất kỳ loại cảm giác khó chịu nào về tinh thần hoặc bất kỳ loại cảm nhận đau đớn hay khó chịu nào do tiếp xúc với tinh thần – điều này, hỡi các Tỳ-kheo, được gọi là ưu sầu”4.
Điều này một lần nữa cho thấy rõ ràng rằng khi Đức Phật miêu tả về dukkha vedanā (khổ thọ) là Ngài đang nói về các cảm giác của thân.
Đức Phật nói trong kinh Satipaṭṭhāna: Ātāpī sampajāno satimā.
Ātāpī satimā (lòng nhiệt thành và ý thức hay là niệm) rất dễ hiểu nhưng tôi phải tìm kiếm ý nghĩa của sampajāno (tỉnh giác). Tôi thấy rằng nó đã được định nghĩa rõ ràng: sampajañnã là sự hiểu biết rõ ràng liên tục và sự hiểu biết thấu đáo về bản chất vô thường của cấu trúc vật chất và tinh thần (đặc biệt là vedanā). Vedanā được cảm nhận trên thân nhưng nó là một phần của tâm và sự quan sát nó có nghĩa là sự quan sát hiện tượng tâm và thân.
Đức Phật dạy:
Và này các Tỳ-kheo, làm thế nào để một Tỳ-kheo hiểu biết tường tận? Ở đây, này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo biết các cảm giác nảy sinh (thành) trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại (trụ) của chúng, và biết sự diệt đi của chúng; vị ấy biết từng sự hay biết ban đầu của tâm (thức tri) trước một đối tượng phát sinh trong vị ấy, biết nó tiếp tục tồn tại và biết nó diệt đi; vị ấy biết những tri giác (tưởng tri) nảy sinh trong vị ấy, biết sự tiếp tục tồn tại của chúng, và biết sự biến diệt của chúng. Điều này, này các thiền giả, là cách một thiền giả hiểu tường tận. Một Tỳ-kheo nên duy trì ý thức (chánh niệm) và bình thản. Đây là hướng dẫn của chúng tôi cho quý vị”5.
Những lời của Đức Phật cũng cho thấy rõ ràng rằng vedanā chỉ những cảm giác trên thân:
“Thổi qua bầu trời có nhiều cơn gió khác nhau, từ Đông và Tây, từ Bắc và Nam, đầy bụi và không bụi, lạnh và nóng, dữ dội và nhẹ nhàng – nhiều cơn gió thổi. Tương tự như vậy, trong thân này, các cảm giác phát sinh, dễ chịu, khó chịu và trung tính. Khi một Tỳ-kheo, thực hành một cách nhiệt thành, tận dụng khả năng hiểu biết thấu đáo của mình, thì một người sáng suốt như vậy hoàn toàn thấu hiểu mọi cảm giác. Và sau khi hoàn toàn hiểu được chúng, trong chính cuộc sống này, vị ấy trở nên giải thoát khỏi mọi bất tịnh. Vào cuối cuộc đời của mình, một người như vậy, được vững vàng trong Dhamma và thấu hiểu các cảm giác một cách hoàn hảo, sẽ đạt được giai đoạn không thể diễn tả được6.
Tương tự như thế, để nhấn mạnh sự kiện rằng vedanā biểu hiện trong thân, Ngài dạy:
Này, các thiền giả, giả sử có một nhà khách công cộng. Mọi người từ Đông, Tây, Bắc, Nam đến và cư ngụ ở đó. Những người (thuộc các giai cấp) Kshatriyas, Brahmins, Vaishya và Shudras (Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà-la) đến và cư ngụ ở đó. Tương tự như vậy, các thiền giả, các cảm giác khác nhau phát sinh trong thân thể này, các cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính phát sinh. Cảm giác dễ chịu với sự dính mắc (chấp trước), cảm giác khó chịu với dính mắc, và cảm giác trung tính với sự dính mắc phát sinh. Tương tự như vậy phát sinh các cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung tính mà không có dính mắc”7.
Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.
Người thầy đáng kính của tôi thường tụng kinh Tikapaṭṭhāna. Tôi thấy rất truyền cảm. Nghiên cứu về Tikapaṭṭhāna cho thấy sự hướng dẫn rõ ràng từ Đức Phật rằng các cảm giác trong thân (kāyika sukhaṃ và kāyika dukkha lạc thọ và khổ thọ trong thân) là những trợ duyên mạnh mẽ gần gũi nhất cho việc đạt Niết-bàn.
“Cảm giác dễ chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả (nibbāna). Cảm giác khó chịu của thân là nguyên nhân cho sự phát sinh của cảm giác dễ chịu của thân, cảm giác khó chịu của thân là trợ duyên mạnh mẽ cho sự đạt được quả vị niết-bàn8.
Và, “Phụ thuộc vào những cảm giác dễ chịu của thân... Vipassana phát sinh... Con đường phát sinh... Tri thức phát sinh... chứng đắc (nibbāna) phát sinh”9.
Tôi không cần thêm bằng chứng để chứng minh rằng Đức Phật đang đề cập đến các cảm giác vật lý, thuộc về thân khi Ngài mô tả về vedanā! Những lời khuyên dạy này của Đức Phật không chỉ xóa tan mọi nghi ngờ của tôi, chúng còn khiến tôi cảm thấy như thể chính Đức Phật đang hướng dẫn mình phải coi trọng các cảm giác của thân.
Một số bạn bè của tôi nhấn mạnh rằng vedanā là một phần của nāma (danh/ tâm) và do đó nó không liên quan đến cảm giác của thân. Sự khác biệt về quan điểm có thể tồn tại. Nhưng đối với tôi, toàn bộ Tam tạng Thánh điển đã làm chứng cho sự thật rằng các cảm giác của thân cũng là một phần của vedanā giống như các cảm nhận của tâm; đúng hơn, những cảm giác thân thể quan trọng hơn nhiều trong lời dạy của Đức Phật. Patthāna (Duyên hệ) đã đưa ra thêm một bằng chứng không thể chối cãi rằng các cảm giác của thân là điều quan trọng hàng đầu trên con đường giải thoát. Tôi đã được hưởng vô số lợi ích từ điều này và tiếp tục dạy Vipassana như những gì mình đã được học từ người thầy đáng kính, đó là coi trọng cảm giác của thân.
Somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) lần lượt được sử dụng cho những cảm nhận dễ chịu và khó chịu trong tâm. Sukhadukkha (lạc thọ và khổ thọ) được sử dụng với nghĩa rộng hơn là hạnh phúc và đau khổ nhưng Ngài cũng sử dụng chúng với nghĩa cụ thể là cảm giác dễ chịu và khó chịu của thân.
Có ba loại cảm giác thân thể. Ba loại này là gì? Cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính (không dễ chịu cũng không khó chịu)”10.
Đức Phật luôn luôn kể ra ba loại vedanā theo cách thức đã đề cập ở trên. Ngài chỉ bao gồm somanassindriyaṃ và domanassindriyaṃ khi Ngài liệt kê năm loại vedanā. Điều này cho thấy tính nổi trội của cảm giác của thân so với cảm nhận của tâm trong lời dạy của Đức Phật.
Katamā ca, bhikkhave, tisso vedanā? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā-imā vuccanti, bhikkhave, tisso vedanā. Katamā ca, bhikkhave, pañca vedanā? Sukhindriyaṃ, dukkhindriyaṃ, somanassindriyaṃ, domanassindriyaṃ, upekkhindriyaṃ-imā vuccanti, bhikkhave, pañca vedanā11.
Đức Phật đã khẳng định vedanā bằng sukha vedanā (lạc thọ) và dukkha vedanā (khổ thọ) khi Ngài nói về satipaṭṭhānas (bốn lĩnh vực thiết lập ý thức/ Tứ niệm xứ) nhưng không bao giờ somanassa vedanā (hỷ thọ) hoặc domanassa vedanā (ưu thọ) trong ngữ cảnh của sampajañnã hoặc satipaṭṭhānas. Trong toàn bộ Kinh tạng, chỉ có khoảng một chục nơi mà vedanā xuất hiện cùng với somanassa nhưng có hàng trăm nơi sử dụng sukha hoặc dukkha vedanā, đặc biệt trong bối cảnh thiền satipaṭṭhānas. Như vậy, rõ ràng vedanā như một phần của nāma bám rễ chắc chắn trong kāya là điều mà Đức Phật muốn chúng ta tập trung vào khi Ngài nói về việc hành thiền để diệt trừ khổ đau.
Đây cũng là lý do tại sao các chư thiên (brahmas, phạm thiên) ở cõi Vô sắc (arūpabrahmaloka) không thể thực hành Vipassana, và là lý do tại sao Đức Phật không thể ban Dhamma cho các vị thầy quá khứ của Ngài, những người đã đạt arūpa jhānas (jhānas/ dhyānas – tầng thiền vô sắc thứ bảy và thứ tám). Trong các jhāna từ thứ năm đến thứ tám, tâm đã thoát ra khỏi thể xác và do đó không có kinh nghiệm về vedanā. Do đó, những vị trời này thiếu sắc thân (rūpa) và không thể trải nghiệm cảm giác của thân. Do đó, họ không thể thực hành ý thức về vedanā và không thể bước đi trên con đường giải thoát.
Đáng chú ý là khi thực hành samādhi (thiền định), somanassadomanassa (hỷ thọ và ưu thọ) biến mất trong tầng jhāna thứ ba nhưng sukhā dukkhā vedanā (lạc thọ và khổ thọ) chỉ biến mất trong tầng thiền jhāna thứ tư. Adukkhamasukhā vedanā (cảm thọ không khổ không lạc) vẫn còn trong tầng jhāna thứ tư. Từ điều này, người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng các cảm giác của thân giúp cho chúng ta nắm vững thực tại mạnh mẽ và liên tục hơn, và như thế là nắm vững nguyên nhân gốc rễ của ta. Người ta có thể hiểu biết rõ ràng các cảm giác và chúng cung cấp một phương tiện cụ thể để đạt được giải thoát cho mình.
Tôi đã học được điều này từ kinh nghiệm của chính mình bằng cách sử dụng kỹ thuật mà thầy đã dạy. Với nền tảng này, những lời dạy của Đức Phật thật thuyết phục và mang tính khích lệ. Con đường này đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui. Theo lệnh của thầy tôi, tôi bắt đầu chia sẻ kỹ thuật này với những người khác, ở Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới. Khi tôi chia sẻ kỹ thuật giải thoát này với các thiền sinh của mình, tôi thấy rằng họ cũng được hưởng lợi bằng cách tu tập với các cảm giác và hiểu được bản chất thực sự của chúng. Lời dạy rõ ràng, thiết thực và hướng đến kết quả của Đức Phật đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều tin tưởng và tự tin, hoàn toàn không có chỗ cho bất kỳ trí tưởng tượng hoặc niềm tin mù quáng nào.
Thỉnh thoảng, có người đến và tranh luận với tôi rằng tại sao tôi lại coi trọng cảm giác của thân đến vậy. Tôi nhã nhặn đề nghị người ấy hãy thử tập thiền Vipassana, để trải nghiệm và kiểm tra xem pháp hành này có phù hợp với lời dạy của Đức Phật hay không.
Hãy buông bỏ tất cả nghi ngờ về phương pháp. Tôi mời bạn: Tất cả chúng ta hãy bước đi trên con đường mà Đức Phật đã chỉ ra, Ngài là nhà khoa học vĩ đại nhất về tâm và thân, vị thầy thuốc về tâm vĩ đại nhất mà thế giới đã sản sinh. Đừng để các đức tin mang tính triết lý của chúng ta trở thành một trở ngại cho chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng khám phá của Đức Phật rằng vedanā là công cụ sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi khổ đau.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát.
---------------------------------
1. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.249.
2. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.251.
3. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.393.
4. Dīgha Nikāya (Trường bộ kinh) 2.394.
5. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 3.5.401.
6. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.260.
7. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.262.
8. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.
9. Paṭṭhāna (Duyên hệ) 1.1.423.
10. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.250.
11. Samỵutta Nikāya (Tương ưng bộ kinh) 2.4.270.
S.N. Goenka (Chân Thông Chiếu dịch)
Nguồn Giác ngộ : https://giacngo.vn/tai-sao-lai-la-vedana-va-vedana-la-gi-post77488.html