Rõ ràng, nếu không có niềm tin, chúng ta không có hy vọng vào tương lai, không có mục đích để hướng đến và không thể vững bước trên con đường ngược dòng sanh tử. Đặc biệt, hành giả tu Phật có niềm tin kiên cố vào Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới thì có thể chứng đạt Sơ quả Tu-đà-hoàn. Đây cũng là pháp tu dành cho người tín căn mạnh mẽ.
1- Tìm hiểu về niềm tin (Saddhā)
Theo kinh điển Pāli, Saddhā trong thời kỳ đầu thuần mang ý nghĩa là niềm tin. Vì mục đích của Phật giáo là hướng đến trí tuệ giải thoát chứ không phải là sự sùng kính. Niềm tin ở đây có thể hiểu là sự tin tưởng vững chắc một điều gì đó khi bản thân đã kinh qua (đến để thấy) hoặc sự tin tưởng vào Đức Phật bởi những công hạnh của Ngài (tùy tín hành).
Niềm tin do sự thực hành
Khi nói đến niềm tin theo quan điểm Phật giáo, đặc biệt là kinh điển Pāli, chúng ta thường nhắc đến kinh Các vị ở Kesaputta1 (hay được biết đến là kinh Kālāmā). Trong kinh, Đức Phật dạy chớ vội tin mười điều sau đây:
- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết;
- Chớ có tin vì theo truyền thống;
- Chớ có tin vì nghe theo người ta nói;
- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng;
- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình;
- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường;
- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện;
- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
- Chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền;
- Chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Đồng thời, quan điểm của Đức Phật là:
“Khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này là không đáng chê; các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời này Kālāmā, hãy đạt đến và an trú”.
Như vậy, Đức Phật nhấn mạnh vào nhận thức của mỗi người. Nếu chúng ta đã thấy, đã đạt được kết quả, thì chúng ta sẽ không còn ngờ vực gì nữa với những lời dạy, những điều được nghe nói.
Tuy nhiên, làm thế nào để biết pháp nào là thiện, là bất thiện, pháp nào bị chỉ trích hay không bị chỉ trích? Tất nhiên phải đi qua sự thực hành và chiêm nghiệm. Do đó, theo quan điểm của người viết, niềm tin được nói đến trong kinh trên là niềm tin do sự “đến để thấy”. Điều này được chứng minh qua những sự hóa độ của Thế Tôn.
Đối với người nông dân, ruộng lúa là nguồn sống, là nơi họ tâm huyết và am tường. Hiểu rõ điều này, Đức Phật đã ví việc chăm sóc tâm như cách chăm sóc ruộng lúa. Để có được mùa màng bội thu, người nông dân cần cày bừa, gieo hạt, bón phân, tưới nước và bảo vệ lúa khỏi sâu bệnh. Tương tự như vậy, để có được tâm hồn thanh tịnh, an lạc, con người cần phải rèn luyện tâm trí, loại bỏ những phiền não, tham sân si và vun bồi những thiện pháp.
Đức Phật nói cho người thợ rèn nghe về pháp luyện tâm như việc rèn nắn mũi tên, cần phải kiên nhẫn, tỉ mỉ để uốn nắn cho nó thẳng thắn. Hay như khi nói pháp cho người huấn luyện ngựa, Ngài dạy rằng tu tập cũng như việc huấn luyện ngựa, cần phải có phương pháp phù hợp để thuần hóa nó.
Với những ví dụ gần gũi và dễ hiểu, Đức Phật đã giúp mọi đối tượng dễ dàng tiếp thu giáo lý. Nhờ đó, họ nhận thấy phương pháp của Đức Phật là đúng đắn, mang lại kết quả an lạc, do đó họ xin quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo chính là biểu thị cho niềm tin bất hoại sau khi chứng nghiệm những lời dạy của Phật. Và điều này dành cho người có tuệ căn, có sự hành trì chứ không phải dành cho phần lớn những người mạnh về đức tin.
Niềm tin bởi sự tôn kính Đức Phật
Khác với niềm tin do sự thực hành, niềm tin này dành cho người mạnh về đức tin. Đây cũng là niềm tin mà người viết muốn bàn đến. Bởi lẽ, niềm tin do sự chứng nghiệm để thấy thì rất vững chắc, không còn sự lung lay hay nghi ngờ gì nữa. Nhưng cần đặt niềm tin vào đúng đối tượng.
Đức Phật dạy như sau:
“Thế nào là đầy đủ lòng tin? Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: Vị này là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này gia chủ, đây gọi là đầy đủ lòng tin”2.
Trong nhiều bản kinh, có kinh Đức Phật dạy lòng tin về Phật, có kinh Ngài dạy về niềm tin gồm bốn thứ: Niềm tin về Phật, niềm tin về Chánh pháp, niềm tin về Tăng và niềm tin về Thánh giới. Nhưng chung quy, niềm tin Phật là quan trọng nhất.
Quả là mâu thuẫn khi nói như vậy so với những gì đã trình bày trong kinh Kālāmā: “Chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình”. Tuy nhiên như đã nói, đây là pháp dành cho người lớn mạnh về đức tin. Với những đối tượng như vậy, liệu rằng họ sẽ lắng nghe những lời dạy từ người mà mình không tin tưởng? Do đó, niềm tin vào Phật sẽ mở ra cơ hội cho họ được nghe giáo pháp của Ngài.
Tất nhiên, không thể nào Đức Phật nói ra lời trên khi mới thành đạo. Ngài kêu gọi mọi người phải tin vào Ngài, bởi những lời dạy của Ngài đã mang lại an lạc cho rất nhiều người. Với uy tín, danh tiếng của Đức Phật mà mọi người ca ngợi, nhiều người đã đặt trọn niềm tin vào Ngài, mong muốn gặp Phật để nghe giáo pháp từ chính Ngài tuyên thuyết. Cũng có trường hợp những Bà-la-môn không tin Đức Phật có đủ 32 tướng tốt, nên không tin nhận lời Phật dạy. Những vị ấy sau khi được Thế Tôn cho xem đầy đủ tướng tốt của Ngài thì liền tin phục, thọ nhận lời Ngài dạy và phát nguyện quy y Tam bảo3. Bởi vì, quan niệm 32 tướng tốt có trong truyền thống của Bà-la-môn giáo, với những ai có đầy đủ tướng tốt của bậc đại nhân như vậy, được đảnh lễ, chiêm ngưỡng là rất quý.
Trên thực tế, Đức Phật không bao giờ yêu cầu mọi người tin tưởng Ngài một cách mù quáng, Ngài luôn khuyến khích mọi người tự mình suy ngẫm, thể nghiệm và khám phá chân lý. Niềm tin vào Đức Phật không phải là mục đích cuối cùng, mà chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng ta đến với giáo lý. Từ sự tin tưởng vào Đức Phật, chúng ta sẽ sinh ra sự tin nhận lời Ngài dạy. Lời dạy của Đức Phật được đúc kết từ kinh nghiệm tu tập và giác ngộ của Ngài, là con đường dẫn đến giải thoát khổ đau. Khi tin tưởng vào lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ có động lực để thực hành và đạt được kết quả.
Niềm tin vào chúng Tăng - hội chúng xuất gia tu tập giải thoát theo lời dạy của Phật - cũng là một yếu tố quan trọng. Chúng Tăng có kinh nghiệm tu tập, có thể hỗ trợ và hướng dẫn chúng ta trên con đường tu. Niềm tin vào chúng Tăng giúp chúng ta củng cố niềm tin vào giáo lý và tăng thêm động lực để thực hành.
Do đó, Đức Phật chỉ mượn đức tin như một phương tiện để dẫn dắt chúng ta đến với giáo lý. Từ sự tin tưởng vào Đức Phật, lời dạy của Ngài và chúng Tăng, chúng ta sẽ có động lực để thực hành và đạt được mục tiêu giải thoát khổ đau.
2- Vai trò và lợi ích của niềm tin
Như đã nói, niềm tin có vai trò quan trọng trong sự tu tập, là nền tảng để phát sinh thiện pháp, tuệ pháp. Cho nên tín căn là pháp tiên khởi trong ngũ căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Tín căn là căn bản để vào đạo, là cội gốc vững chắc không lay chuyển và sinh ra mọi pháp lành. Trong kinh, Đức Phật dạy năm pháp tín, tấn, niệm, định, tuệ là những pháp cần phải quán:
“Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán Tín căn ở chỗ nào? Ở đây, cần phải quán Tín căn trong bốn Dự lưu phần… cần phải quán Tấn căn trong bốn Chánh cần… cần phải quán Niệm căn trong bốn Niệm xứ… cần phải quán Định căn trong bốn Thiền… cần phải quán Tuệ căn trong bốn Thánh đế”4.
Đoạn kinh trên cho thấy, hành giả tu tập đầy đủ năm căn, tức đã trọn vẹn các pháp Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần… hay có thể đạt được tuệ giác, giải thoát khổ đau đạt đến an lạc5.
Niềm tin vào Tam bảo không chỉ là nền tảng căn bản của đạo Phật, mà còn được xem là một trong những tài sản quý giá nhất của người tu hành. Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài, chính là Thất thánh tài, hỗ trợ hành giả trên con đường hướng đến giải thoát. Sở dĩ ví niềm tin Tam bảo như tài sản, bởi nó có công năng yểm trợ cho hành giả trong suốt hành trình tu tập. Niềm tin vào Đức Phật, bậc Giác ngộ viên mãn, là nguồn cảm hứng và động lực để hành giả noi theo tấm gương sáng, trau dồi đạo hạnh. Niềm tin vào Pháp, giáo lý chân chính của Đức Phật, soi sáng con đường tu tập, giúp hành giả nhận thức rõ ràng về bản thân và thế giới xung quanh. Niềm tin vào Tăng, những người xuất gia tu hành, tạo nên môi trường tu tập thanh tịnh, hỗ trợ và khích lệ lẫn nhau trên con đường giác ngộ.
Đức Phật dạy rằng: “Nếu một người không có lòng tin vào thiện pháp, được gọi là người nghèo khổ trong Luật của bậc Thánh”6. Lời dạy này khẳng định tầm quan trọng của niềm tin, đặc biệt là niềm tin vào Tam bảo. Đây chính là kim chỉ nam dẫn dắt hành giả vượt qua những chướng ngại, thử thách trên con đường tu tập, là điểm tựa vững chắc cho người tu hành trên con đường hướng đến giác ngộ, hướng đến mục tiêu an lạc, giải thoát.
Với vai trò quan trọng như vậy, không có gì ngạc nhiên khi một hành giả có niềm tin vững chắc đạt được những lợi ích thiết thực. Đức Phật cũng khẳng định rằng, có những điều mà chỉ người có lòng tin mới có thể đạt được, còn người khác thì không thể7. Như năm phần thưởng thiết thực mà một hành giả có chánh tín đạt được, không chỉ cho đời này mà còn cho cả đời sau:
Được các bậc Chân nhân thương tưởng;
Được các bậc Chân nhân viếng thăm;
Được các bậc Chân nhân thọ nhận sự cúng dường;
Được các bậc Chân nhân thuyết pháp;
Sau khi mạng chung, sanh về cõi lành8.
Trong kinh Tương ưng, Đức Phật dạy: năm thượng phần kiết sử là sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử, vô minh là những sợi dây trói buộc con người vào khổ đau. Nhưng vị nào “tu tập tín lực liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... Để thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử này, năm lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực) cần phải tu tập”. Không những thế, tu tập tín lực còn có thể nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si... hướng đến quả Niết-bàn giải thoát.
Mục đích của sự tu tập là đạt được sự giải thoát khỏi khổ đau, phiền não, chứng quả Niết-bàn. Để đạt được điều này, hành giả cần phải nỗ lực tinh tấn, trau dồi giới, định, tuệ và phát triển lòng tin Tam bảo. Đối với những người có niềm tin Tam bảo vững chắc, họ có thể nhận được nhiều lợi ích thiết thực trong tu tập. Một trong những lợi ích quan trọng nhất là khả năng nhập vào dòng Thánh với quả vị Dự lưu, là quả vị đầu tiên trong bốn quả vị Thánh. Người đạt được quả vị Dự lưu được xem là đã vượt qua địa vị phàm phu, không còn bị đọa lạc vào ba cõi ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Do đó, thực hành niềm tin là một trong những cách để đạt được những pháp khả lạc, khả ái, khả hỷ ngay trong đời sống hiện tại, đưa đến hạnh phúc và an lạc trong tương lai.
Bên cạnh đó, ngoài những lợi ích cho tự thân, hành giả còn đem lại lợi ích cho tha nhân, những người thân cận bên mình. Như trong kinh, Đức Phật dạy:
“Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình lớn lên về năm phương diện. Thế nào là năm? Lớn lên về lòng tin; lớn lên về giới; lớn lên về học hỏi; lớn lên về bố thí; lớn lên về trí tuệ”.
Đức Phật cũng khẳng định rằng:
“Thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ”.
Qua đó, có thể thấy, niềm tin không phải là liều thuốc an thần, mà đó là một pháp môn thiết thực, mang lại lợi ích lớn cho những hành giả lớn mạnh về đức tin.
Ngược lại, với những ai không có niềm tin vào Tam bảo sẽ dễ dàng bị cám dỗ bởi những điều xấu, dẫn đến việc tạo ra ác nghiệp và đọa lạc vào những cõi khổ. Niềm tin là sợi dây liên kết giữa hành giả và Tam bảo, nên khi thiếu mất niềm tin, hành giả sẽ khó hòa nhập và nhận được sự hỗ trợ từ những người đồng tu khác. Như vậy, họ không thể ở trong hội chúng của Phật và không thể gần gũi với Đức Thế Tôn để thăng tiến đời sống tâm linh. Do bởi niềm tin giúp hành giả có được sự tự tin và nội tâm an lạc, nên khi thiếu niềm tin, hành giả dễ bị nghi ngờ, lo lắng và tự trách bản thân. Từ đó có những lui sụt trong sự tu tập, chuyển hóa thân tâm nên không nhận được sự tin tưởng và tôn trọng từ những người xung quanh. Và khi lâm chung, hành giả dễ bị hoảng loạn, sợ hãi khi đối diện với cái chết, gây nhân tái sinh vào những cõi khổ.
3- Xây dựng niềm tin Tam bảo
Như đã phân tích, niềm tin được vun đắp qua quá trình chiêm nghiệm và hành trì giáo lý (đếnđểthấy) là một niềm tin vững chắc, không gì lay chuyển. Khi chưa trực tiếp trải nghiệm, nghi ngờ là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, khi đã thấu tỏ chân lý, sự nghi ngờ sẽ tự nhiên tan biến. Những người thực hành lời Phật dạy, tự thân cảm nhận lợi ích thiết thực của giáo pháp sẽ sinh ra niềm tin bất hoại đối với Tam bảo. Cho dù người học Phật xưa nay vẫn còn những điều tiêu cực, nhưng niềm tin của chúng ta vào bản thể cao quý của Tam bảo vẫn không hề thay đổi.
Ngược lại, niềm tin bắt nguồn từ sự ngưỡng mộ cá nhân nào đó, lại mang tính chất khác biệt. Nếu người mình đặt trọn niềm tin là bậc giác ngộ, lợi ích sẽ vô cùng to lớn, bằng không, hậu quả sẽ là những điều mê tín, cuồng tín...
Chính sự thực hành những nguyên tắc của đời sống đạo đức, chúng ta mới cảm nhận được sự an lạc, không bị những cám dỗ bởi những thú vui ngũ dục. Chính vì không bị ngũ dục lôi kéo nên ta sẽ giữ được sự tỉnh thức trước những điều huyền bí, huyễn hoặc. Bên cạnh đó, việc áp dụng lời dạy của Đức Phật vào đời sống hàng ngày, thực hành thiền quán giúp chúng ta cân bằng trạng thái của tâm.
Đức Phật dạy khi đặt trọn niềm tin vào một người duy nhất sẽ tiềm ẩn nhiều nguy hại. Nếu ai mến mộ hình tượng một vị Tăng, khi vị ấy bị chúng Tăng quở trách, người đó liền có thái độ xa lánh chúng Tăng. Do xa lánh chúng Tăng, người đó không còn được nghe pháp và thối đọa trên con đường đạo. Chính vì vậy, gìn giữ niềm tin đối với Tam bảo là điều vô cùng quan trọng và khó khăn.
Vậy làm cách nào để gìn giữ niềm tin đó? Đức Phật dạy: “Do ba sự kiện này, một người được biết là có lòng tin. Thích thấy người giới hạnh, muốn được nghe diệu pháp, nhiếp phục uế xan tham, vị ấy gọi là có tin”.
Như vậy, đối với người có niềm tin là người thường quý trọng và kết thân với những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, giữ gìn giới luật, sống thanh tịnh. Họ luôn mong muốn được nghe những lời Phật dạy, những diệu pháp để nuôi dưỡng thân tâm và tăng trưởng trí tuệ. Và với tâm hồn rộng mở, họ sẵn sàng chia sẻ tài sản, vật chất của mình cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Họ bố thí mà không mong cầu lợi ích cá nhân. Bởi vì biết rằng bám víu vào vật chất, danh lợi là trói buộc vào khổ đau, do đó, họ sẵn sàng từ bỏ những thứ không cần thiết để hướng đến cuộc sống thanh tịnh, an lạc. Họ không chỉ bố thí bằng vật chất mà còn bằng những lời nói tốt đẹp, hành động thiện lành, giúp đỡ mọi người bằng cả tấm lòng.
Chính sự thực hành những nguyên tắc của đời sống đạo đức, chúng ta mới cảm nhận được sự an lạc, không bị những cám dỗ bởi những thú vui ngũ dục. Chính vì không bị ngũ dục lôi kéo nên ta sẽ giữ được sự tỉnh thức trước những điều huyền bí, huyễn hoặc. Bên cạnh đó, việc áp dụng lời dạy của Đức Phật vào đời sống hàng ngày, thực hành thiền quán giúp chúng ta cân bằng trạng thái của tâm. “Không có gì hạnh phúc bằng sự yên tĩnh của tâm hồn”. Đó là trạng thái an lạc, hạnh phúc mà chỉ những hành giả thực tập thiền quán mới có thể chiêm nghiệm được. Như M. Bristol Claude nói: “Niềm tin mà không hành động là niềm tin chết”.
Hơn nữa, việc thường xuyên nghe pháp, xem kinh, đặc biệt là tìm hiểu, suy ngẫm về cuộc đời Đức Phật, về những bậc tu hành chân chính, cũng khiến chúng ta sinh tâm hoan hỷ. Chính cuộc đời Đức Phật đã thực sự mang lại niềm tin cho chúng sanh. Dẫu rằng Đức Thế Tôn diệt độ hơn 25 thế kỷ qua, nhưng chỉ một ý niệm nghĩ về Ngài cũng mang lại sự an lạc cho tất cả.
Thi hào Rabindranath Tagore có lần nhìn thấy một người nghèo khổ từ Nhật Bản xa xôi đến Bồ Đề Đạo Tràng đất Phật, trong đêm tối chắp tay thầm nguyện: “Con xin quay về nương tựa Phật”. Một người dân nghèo, tằn tiện cả đời để có thể hành hương về đất Phật và bộc bạch điều đơn giản ấy với biểu tượng giác ngộ. Bởi lẽ, Đức Phật là hiện thân của sự thiện mỹ giữa cõi đời ô trược này. Cuộc đời Ngài đã chứng minh điều đó.
Hiện nay, Phật giáo đang đối mặt với nhiều vấn nạn, gây ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng. Trong bối cảnh đó, những tấm gương về đời sống phạm hạnh chính là giải pháp hữu hiệu nhất để chứng minh giá trị vĩnh cửu của Phật giáo. Thay vì tranh luận hay biện minh, mỗi hành giả hãy nêu cao đời sống đạo đức của bản thân. Đó chính là minh chứng hùng hồn nhất cho sức mạnh và giá trị đích thực của Phật pháp.
Mỗi hành động thiện, mỗi lời nói hay, mỗi cử chỉ đẹp của chúng ta đều góp phần làm rạng danh Phật pháp và gieo mầm thiện lành cho xã hội. Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần khi nói đến Phật giáo đã thừa nhận: “Vật đổi sao dời, nhà chùa có thể bị đổ nát, nhưng những giá trị đạo đức chân chính của nhà Phật để lại thì vĩnh tồn với xã hội”.
Chúng ta đang thừa hưởng gia tài vô giá của Đức Phật, chúng ta đang thay Ngài mang nguồn an lạc đến với mọi người. Nếu người học Phật không thực hành theo lời Phật dạy, không làm sáng lại những giá trị chân thật đó, thì những di sản ấy sẽ lụi tàn theo thời gian. Hãy làm cho “Phật pháp mãi trường tồn” bằng sự thực hành chứ không phải là những lời cầu nguyện. Và với sứ mạng trở thành cánh tay nối dài của Phật pháp, mỗi hành giả hãy giữ vững niềm tin Tam bảo trong chính tự thân và gìn giữ niềm tin ấy cho cộng đồng.
4- Kết luận
Niềm tin trong sạch có vai trò vô cùng quan trọng. Nhờ có niềm tin, chúng ta có động lực để vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình tu tập. Có niềm tin, chúng ta có niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng, an lạc, có sự kiên định và quyết tâm để thực hành giáo pháp một cách kiên trì. Và hơn hết, nhờ niềm tin, chúng ta có khả năng phát triển tâm Bồ-đề, hướng đến giác ngộ và giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh.
Niềm tin Tam bảo là tài sản quý giá mà mỗi người cần trân trọng. Hãy nuôi dưỡng niềm tin của mình như ngọn lửa thiêng, soi sáng con đường tu tập và dẫn dắt chúng ta đến bến bờ giác ngộ.
-------------------------------
1 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi bộ, tập I, trang 219.
2 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi bộ, tập I, trang 409.
3 Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, trang 90.
4 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương ưng bộ, tập II, trang 606.
5 Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, trang 365.
6 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi bộ, tập II, trang 89.
7 Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung bộ, tập II, trang 122.
8 Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi bộ, tập I, trang 641.
Thích Nhuận Hạnh/Báo Giác Ngộ