Tầm vóc lịch sử của Quốc dân Đại hội Tân Trào

Tầm vóc lịch sử của Quốc dân Đại hội Tân Trào
8 giờ trướcBài gốc
Cơ sở pháp lý cho hành động của Ủy ban dân tộc giải phóng
Đảng ta và Bác Hồ đã tiên lượng rất sớm trình tự, bước đi của việc dựng xây một Nhà nước. Vì cách mạng chưa đến ngày thắng lợi, chưa có chính quyền nên phải có một cuộc Quốc dân Đại hội làm căn cứ cho việc xây dựng chính quyền sắp tới. Quốc dân Đại hội Tân Trào có vai trò như một Quốc hội lâm thời.
Với cơ cấu đại biểu đại diện cho khắp các vùng miền, đại diện cho các giới, các đoàn thể ái quốc, các tầng lớp nhân dân nên quyết sách của Đại hội là quyết sách của nhân dân. Nói cách khác, Quốc dân đại hội Tân Trào đã tạo dựng cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho sự hình thành một Chính phủ lâm thời ngay sau khi cách mạng thành công. Có Quốc dân Đại hội thì mới có cơ sở cho việc ra đời một chính phủ, cũng như sau này, phải Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, và có Quốc hội rồi mới thành lập được Chính phủ.
Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, nơi Người đã chủ trì Quốc dân Đại hội, quyết định Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng. Ảnh: TL
Ngày 25/8/1945, khi Tổng khởi nghĩa thành công vang dội, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều đáng lưu ý về Chính phủ lâm thời là, nhiều Ủy viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút ra để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia Chính phủ như cụ Nguyễn Văn Tố, ông Nguyễn Mạnh Hà, Luật sư Vũ Trọng Khánh... “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”.
Chương trình 10 điểm của Đại hội - một bản "Hiến pháp" tạm thời
Quốc dân Đại hội đã quyết nghị Chương trình 10 điểm và giao cho Ủy ban dân tộc giải phóng thi hành:
1 - Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
2 - Võ trang nhân dân. Phát triển Quân giải phóng Việt Nam.
3 - Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tùy từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4 - Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5 - Ban bố những quyền của dân, cho dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
6 - Chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
7 - Ban bố Luật lao động: ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8 - Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở mang quốc gia ngân hàng.
9 - Xây dựng nền quốc dân giáo dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hóa mới.
10 - Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ.
Vào thời điểm lịch sử tháng 8/1945, chúng ta có thể coi chương trình 10 điểm trên đây như một bản Hiến pháp tạm thời. Trừ một vài tiểu tiết nhằm đáp ứng yêu cầu tình hình trước mắt trong thời gian ngắn trước và sau cách mạng, còn phần lớn các điểm có sự tương ứng với các Hiến pháp trong suốt 80 năm qua, kể cả Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013). So với Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp hiện đại nhất, ta vẫn thấy Chương trình 10 điểm có sự tương đồng, tương ứng:
- Điểm 1, tương ứng với Chương I - Chế độ chính trị (thể chế Nhà nước).
- Điểm 2, tương ứng với Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc (trong đó có nhân tố quan trọng là các lực lượng vũ trang nhân dân).
- Điểm 5, tương ứng với Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (cần nói thêm là, ngay từ khi ấy, vấn đề nhân quyền đã được đặt ra với tinh thần là một vấn đề cấp bách của thời cuộc).
- Các điểm 4, 6, 7, 8, 9, tương ứng với Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (cũng ngay từ bấy giờ các vấn đề phổ cập giáo dục sơ cấp; bảo hiểm xã hội, đặt lương tối thiểu, cứu tế nạn dân, ban bố Luật lao động - những trụ cột chính của an sinh xã hội; nam nữ bình quyền đã được đặt thành nhiệm vụ của cách mạng).
- Điểm 10, tương ứng với Đường lối đối ngoại ở Điều 12 (thuộc chế độ chính trị) của Hiến pháp năm 2013.
Với “Hiến pháp tạm thời” này, Ủy ban dân tộc giải phóng (Chính phủ lâm thời) có đầy đủ cơ sở pháp lý để hành động, điều hành công việc ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công.
Quy trình, thủ tục hoạt động của Đại hội
Có 6 báo cáo cơ bản được trình ra Đại hội gồm báo cáo tổng thể toàn diện của đồng chí Trường Chinh, 3 báo cáo có tính chất lĩnh vực về công nhân, nông dân và văn hóa; 2 báo cáo có tính chất chuyên đề về phong trào cách mạng ở một đô thị lớn - Hà Nội và chuyên đề hướng đạo. Sau công đoạn trình các báo cáo là công đoạn thảo luận. Đọc các tài liệu lịch sử, chúng ta nhận thấy, trong công đoạn thảo luận thực chất là hàm chứa ba loại hoạt động xen kẽ nhau (trao đổi ý kiến để làm rõ tình hình; hỏi đáp để thông hiểu chủ trương mà hành động cho đúng; và chất vấn để làm rõ trách nhiệm). Sự đan xen này là hoàn toàn hợp lý vì, Đại hội chưa phải là một Quốc hội hoàn chỉnh để tổ chức bộ máy phù hợp với các hoạt động. Vả lại, yêu cầu cấp bách (tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ) toàn quốc nổi dậy Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền - vấn đề cơ bản của bất kỳ cuộc cách mạng xã hội nào.
Trở lại ba hoạt động nói trên, lấy hoạt động chất vấn làm ví dụ: theo lời kể của đồng chí Vũ Quang (đại biểu dự Đại hội) thì đại biểu Trần Huy Liệu phát biểu tỏ ra chưa đồng tình với thái độ ứng xử mềm dẻo của ta khi quân Đồng minh tiến vào mà quân Pháp nấp bóng theo sau. Đại biểu Trần Huy Liệu nói, “Thực dân Pháp bắt dân ta làm nô lệ 100 năm; nay nó muốn quay lại thì đề nghị Bác cho đánh nó ngay khi nó vừa đặt chân lên đất nước ta”(+). Bác đã trả lời (giải thích) trước toàn thể Đại hội. Trong suốt thời gian chuẩn bị, Bác luôn nắm vững thời cơ nhưng đồng thời cũng luôn thấy rõ nguy cơ nên với lý lẽ hợp lý, sắc bén của Bác, đại biểu Trần Huy Liệu đã tỏ rõ thái độ đồng tình. Tổng quát về hoạt động chất vấn, đại biểu Nguyễn Đình Thi viết: “Tôi còn nhớ anh Trần Đức Thịnh, lúc đó là xứ ủy viên phụ trách nông vận, đã nói rất hăng, nêu nhiều vấn đề gai góc. Và anh Dương Đức Hiền cũng nêu những câu hỏi thẳng thắn về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Đảng Dân chủ Việt Nam. Bác đã trả lời cặn kẽ những câu hỏi của từng người, không sót một ai. Cho đến lúc không còn ai hỏi thêm nữa, và đều vui vẻ vì đã thông suốt các công việc. Bác chúc các đại biểu về nhanh các địa phương, giúp lãnh đạo khởi nghĩa thắng lợi”(1).
Liên hệ với các kỳ họp Quốc hội các khóa trước đây và hiện nay thì trình tự, thủ tục cũng tương tự như thế, chỉ có khác là, bây giờ Quốc hội có bộ máy hoàn chỉnh, có thời gian đầy đủ nên các hoạt động, các công đoạn của công việc được tách bạch rành mạch, rõ ràng hơn.
Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Đại hội
Thành công rực rỡ của Đại hội có nguồn gốc sâu xa là sự đổi mới đúng đắn, kịp thời đường lối của Đảng. Như đã nói, tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) Đảng ta đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Ngay sau đó ngày 6/6/1941 trong Kính cáo đồng bào, Bác đã viết “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi, lửa nóng”(2). Chủ trương đường lối đổi mới này nhằm khắc phục khuynh hướng đề cao quá mức, gần như tuyệt đối hóa lợi ích của giai cấp vô sản, chưa chú trọng đúng mức đến lợi ích chung của cả dân tộc trong một thời gian dài. Nhận ra điều đó, Đảng ta đã đánh giá lại đầy đủ hơn vai trò và lợi ích của các giai tầng trong xã hội, lợi ích chung của cả dân tộc. Do đó Quốc dân Đại hội là một kết quả của việc tập hợp, thống nhất lực lượng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Rõ ràng, Đảng ta đã lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối đúng đắn của mình để đi đến thắng lợi, đạt được mục tiêu của Đại hội.
Còn trực tiếp tại Đại hội thì toàn thể đảng viên dự Đại hội đã nắm rất chắc Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945). Hội nghị đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng về nội dung Quốc dân Đại hội Tân Trào. Trong đó có những vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt như quyết định Tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang trong cả nước thành Giải phóng quân Việt Nam, thi hành 10 chính sách của Việt Minh... Các đảng viên đã hăng hái phát biểu, các chính kiến có tính thuyết phục đã có sức lan tỏa sang các đại biểu khác. Do đó Đại hội đã nhanh chóng thống nhất và thống nhất cao các quyết nghị của Đại hội.
Trên giác độ về cơ quan lập pháp thì Quốc dân Đại hội Tân Trào là một tiền thân của Quốc hội hay một Quốc hội lâm thời đã đặt nền móng cơ bản cho việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội từ Khóa I và được hoàn thiện dần cho đến bây giờ. Trong đó có những vấn đề như là những bài học rất quý báu, như: cơ cấu, thành phần đại diện cho nhân dân mang tính đại đoàn kết dân tộc ở một trình độ cao; sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chi tiết về mọi mặt và sự lãnh đạo nhạy bén, sát sao của Đảng là nhân tố bảo đảm cho sự thắng lợi của Đại hội. Trong ngổn ngang công việc lúc bấy giờ, việc lựa chọn những nội dung công việc bức xúc, khẩn cấp nhất ở tầm quốc gia để trình Đại hội thể hiện trong các báo cáo là một bài học quý báu. Chương trình nghị sự, quy trình, thủ tục, phương pháp điều hành, các hoạt động tại Đại hội có tính hợp lý, khoa học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể...
Tất cả các vấn đề đó đều là những kinh nghiệm quý báu cho các khóa Quốc hội sau này, hiện tại và mai sau.
(1) Văn phòng Quốc hội: Quốc dân Đại hội Tân Trào, H 1995, tr. 43.
(2) HCM Toàn tập, tập 3 (1930 - 1945), NXB CTQG, H. 2002, tr. 198.
(+) Như (1), trang 49.
Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/tam-voc-lich-su-cua-quoc-dan-dai-hoi-tan-trao-10384978.html