Tản mạn chuyện cây chè ở Suối Giàng

Tản mạn chuyện cây chè ở Suối Giàng
6 giờ trướcBài gốc
Du khách tham quan bản Pang Cáng ở Suối Giàng
Trên hành trình du ngoạn ấy, tôi chợt nghĩ, nếu núi cao và những cánh đồng được tạo ra từ các vùng trũng giữa các dải núi là một trong những đặc điểm tiêu biểu của Tây Bắc thì vùng đất huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái trước đây (nay thuộc tỉnh Lào Cai) chính là một trong những nơi khởi đầu nhưng mang đậm chất Tây Bắc như thế. Miền đất với những sắc màu mang đậm chất Tây Bắc này cũng chính là nơi bắt đầu cho những hành trình du lịch, khám phá miền Tây Nam của tỉnh Lào Cai nói riêng và miền Tây Bắc nói chung. Có thể nói, với những thắng cảnh thơ mộng cùng các địa danh nổi tiếng, gắn liền bao sản vật tên tuổi mà thiên nhiên ưu đãi cho miền đất cửa ngõ phía Tây Nam của miền Tây Bắc; kết hợp cùng những lễ hội của người Thái, người H’Mông mang đậm sắc màu văn hóa tộc người riêng biệt, vô cùng hấp dẫn như ở Mường Lò, ở Tú Lệ hay trên Suối Giàng; người ta đang ngày một biết đến và yêu quý rất nhiều những con người, thiên nhiên vùng Tây Bắc. Những cảnh sắc núi rừng hùng vĩ, hoang sơ cùng cuộc sống chất phác, mộc mạc của đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây đã và đang tạo nên một sức hút mạnh mẽ và làm mê đắm lòng người. Trong không gian huyền diệu của vùng đất Văn Chấn ấy, khu vực núi cao ở Suối Giàng với những vườn chè (trà) Shan Tuyết hàng trăm năm tuổi của người H’Mông mà chúng tôi đang qua là một trong những điểm đến thú vị, đầy ấn tượng mà người yêu du lịch, yêu miền núi cao, kẻ đam mê xê dịch hay những tín đồ của trà đạo sẽ không thể không biết đến hoặc không thể bỏ qua nơi cửa ngõ Tây Nam của miền Tây Bắc này được.
Suối Giàng từng được đến là một vùng núi cao, nằm ở sườn phía Đông Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn. Do ở trên độ cao khoảng 1400 mét so với mực nước biển nên dường như quanh năm xứ núi này có sương mù bao phủ, một năm có đến chín tháng. Cũng bởi vậy mà miền đất trên cao của Văn Chấn này còn được ví là “Sa Pa” thứ hai ở Lào Cai hoặc “Đà Lạt” ở Tây Bắc; bầu không khí lúc nào cũng trong lành, mát mẻ; nhiệt độ bình quân dao động từ 18 độ C đến 25 độ C. Nói thực, khi mới đến Suối Giàng, thoạt nhìn những núi cao vực thẳm bên những con đường quanh co dốc dựng, người ta không khỏi thấy ớn mình bởi những gian khó, khắc nghiệt của tự nhiên đang phơi bày ra trước mắt. Nhưng đến khi ở rồi người ta sẽ thấy, dường như không phải vậy, nhất là khi các vùng đô thị đang ngày càng bị tiếng ồn, khói bụi tra tấn cùng các hiện tượng thời tiết cực đoan với những trận nắng nóng, khô hạn bất thường. So sánh như vậy ta sẽ thấy bầu khí trời thoáng đãng, sạch sẽ, dễ chịu trên đỉnh núi cao kia của Suối Giàng quả là một món quà mơ ước của rất nhiều người. Có lẽ, cũng vì ở dưới thấp nhiều khi ngột ngạt quá mà có người đã bỏ phố về rừng hay cứ có cơ hội lại lại mò về ở cùng với núi với rừng, mà tôi thấy Suối Giàng đang là một điểm đến được nhiều người lựa chọn.
Một vườn chè Shan Tuyết nổi tiếng ở Suối Giàng
Bây giờ đến Suối Giàng không khó, không khổ như trước đây nữa. Đường nhựa dẫn lối về đến bản, đường bê tông phủ khắp các hang cùng ngõ hẻm trên núi cao đến đồi sâu. Và nơi “thâm sơn cùng cốc” Suối Giàng không còn cảnh những ngọn đèn leo lét, phập phù trong những đêm đen mà đã được điện giăng khắp núi, thắp sáng cả rừng đêm heo hút. Trên đỉnh non cao, nhà hàng, nhà nghỉ ở Suối Giàng chẳng kém gì phố thị. Kể vậy để thấy được sự thay đổi, phát triển ở Suối Giàng. Nhưng những đổi thay ở Suối Giàng không giống như ở phố núi Sa Pa cùng tỉnh. Lên “thiên đường” Sa Pa, đôi khi người ta thấy không khác gì tránh đô thị “vỏ dưa” gặp đô thị “vỏ dừa”. Ở trung tâm cái phố núi ấy, “rác” âm thanh, “rác” bụi có khi không kém gì phố phường dưới miền xuôi; thậm chí còn có cả những “rác” kiến trúc với đủ loại nhà mọc lên như nấm sau mưa; nhếch nhác, chen chúc, tranh nhau vươn lên trời cao như thể thiếu dưỡng khí, phá hỏng cảnh quan của khu du lịch nổi tiếng. Sự phát triển của Suối Giàng dường như biết nương theo cảnh quan của núi rừng; của văn hóa bản địa. Đến đây, người ta không thấy những ngôi nhà giống như những khối bê tông đồ sộ, che khuất cả núi non; không thấy nhà nọ chen chúc với nhà kia như thể nêm cối. Ở trên núi cao Suối Giàng có không ít homestay, nhà nghỉ, nhà hàng … nhưng dường như mọi ông chủ nơi đây khi thiết kế, xây dựng đều rất tôn trọng thiên nhiên và văn hóa bản địa. Bởi thế, đi khắp các bản làng, người ta chỉ nhìn thấy những cổng làng, cổng nhà, cồng quán và những ngôi nhà thâm thấp có bốn mái lợp “ngói” pơmu đã nhuộm màu thời gian tựa như những ngôi nhà của người H’Mông cách đây hàng mấy chục năm về trước. Đêm đến, ngồi trong nhà hàng có tầm nhìn xuống núi, trông về thung lũng Mường Lò, người ta thấy thị xã Nghĩa Lộ lung linh ánh điện, đẹp như sao trời lấp lánh.
Cây chè Shan Tuyết được công nhận là cây Di Sản ở bản Pang Cáng - Suối Giàng
Bồng bềnh trên núi cao, giữa bốn bề mù sương, hít hà hương trà Shan Tuyết, ngẫm về cái lẽ công bằng của tạo hóa. Cứ tưởng nơi non xanh mù mịt mây trời là khổ nhưng ngẫm ra không phải vậy. Đêm hè ngủ trên Suối Giàng, người ta phải đắp chăn mỏng cho đỡ lạnh. Bầu trời thoáng đãng, khí hậu mát mẻ như thế bảo sao da con gái xứ này không trắng mịn, trắng hồng cho được. Chẳng những thế, đồ ăn thức uống cũng toàn hàng sạch cả. Rau vườn vừa giòn vừa ngọt; gà đồi miếng thịt săn chắc, thơm ngon; lợn bản da dày, mỡ mỏng, hương thơm đậm đà ... Nghĩ thế, hóa ra, ở trên vùng núi cao như Suối Giàng đâu có thể bảo là khổ được nhỉ? Đã vậy, thổ nhưỡng và khí trời còn tặng cho Suối Giàng những vườn chè cổ thụ có tuổi đời hàng trăm năm. Theo thống kê và công nhận của Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam ở Suối Giàng có đến 400 cây chè Shan tuyết cổ thụ được xếp vào hàng Cây di sản, năm 2016. Những cây chè cổ thụ này có tuổi đời từ 100 năm đến 300 năm, trong đó có cây chè Tổ có tuổi đời khoảng 400 năm. Phải nói rằng, nếu chưa đến Suối Giàng người ta sẽ khó lòng hình dung ra cây chè Shan Tuyết. Nó không thấp bé như những cây chè trên lưng đồi ở Thái Nguyên hay Mộc Châu mà ta thường gặp. Vườn chè cổ thụ ở Suối Giàng nhìn rất đẹp, cổ kính. Nhiều cây thân to phải hơn người ôm; cao chừng từ 4 đến 5 mét; tán xòe rộng hơn chục mét. Nếu không có người đi cùng nói cho biết hay không biển chỉ dẫn, hẳn có nhiều người chưa dám tin đó là những cây trà bởi sự to cao, rộng lớn khác thường. Những cây trà cổ thụ ấy có lớp vỏ trắng mốc; nhiều cây gân guốc, xù xì phủ đầy rêu, địa y trên khắp thân, cành. Lá trà to, dày; màu xanh đậm; búp cũng khá to. Mặt lá trà phủ một lớp lông tơ mịn như nhung, trắng như tuyết. Chính đặc điểm này đã hình thành nên tên gọi của loại chè đặc biệt này, Shan Tuyết. Shan phát âm của từ sơn, nghĩa là núi, chỉ nơi trồng cây trà này, trên núi cao; Tuyết là màu trắng, vừa chỉ đặc điểm của những lông tơ trên búp, lá cây chè vừa chỉ đặc điểm môi trường sinh tồn của cây chè: nơi núi cao thường xuyên có sương mù bao phủ, cây chè như được phủ tuyết, pha sương. Trên núi cao Suối Giàng cây chè Shan Tuyết sống tự nhiên, hoang dã. Cây chè ở đây không cần chăm bón, thuốc thang nhưng vẫn cứ xanh tốt quanh năm. Dễ chè cắm sâu vào đất đá hút dưỡng chất. Lá chè ngậm hơi sương, hít không khí của trời xanh bao la. Vậy ra, dưỡng chất nuôi cây chè chính là linh khí của đất trời. Chính những nắng, mưa, sương, gió trên núi cao đã tạo ra hương vị đặc biệt của cây chè. Bởi thế người H’Mông ở Suối Giàng rất quý trọng cây chè. Họ coi cây chè là báu vật của trời xanh dành cho mình cho nên hàng năm, đến khoảng cuối tháng chín hoặc sang đầu xuân, đồng bào lại sắm lễ cúng cây chè, thậm chí còn mở hội tôn vinh cây chè Tổ.
Bên cây chè Shan Tuyết tổ ở Suối Giàng
Bây giờ trên non cao Suối Giàng có nhiều vườn chè Shan Tuyết rất đẹp. Người ta không chỉ trồng chè để thu hoạch búp lá mà còn làm du lịch. Những cây chè được giữ gìn như những kỳ mộc trang nhã để sánh bên những vườn hoa thơm đang tỏa hương khoe sắc và các loại cổ mộc khác của miền sơn cước làm cho người ta cứ ngỡ như đang lạc bước trong vườn thượng uyển trên thiên đường mù sương. Cũng như bao du khách, từ không gian của vườn trà cổ thụ San Tuyết ở bản Pang Cáng bước ra, chúng tôi rẽ vào một không gian khác: “Không gian văn hóa trà Suối Giàng”, để thưởng chè và ngắm trời, ngắm đất nơi đây. Không gian thưởng trà này hài hòa với cảnh quan, rất đẹp và có vị trí rất đắc địa. Đó không chỉ là một không gian thưởng chè mà còn là một điểm săn mây, ngắm cảnh với tầm nhìn tuyệt đối. Từ trên cao nhìn xuống, bản cổ Pang Cáng hiện ra đẹp như cổ tích. Những nếp nhà lợp gỗ pơ mu theo kiểu kiến trúc truyền thống của người H’Mông thấp thoáng, xen kẽ bên những đồi chè, vườn cây xanh tươi, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Những thửa ruộng bậc thang vàng óng, uốn lượn mềm mại, e ấp, nép mình bên vạt núi duyên dáng, yêu kiều. Nhìn lên bầu trời, mây trắng bồng bềnh như thể đang vờn trên vách núi xa xa làm cho cảnh chiều hôm miền sơn cước thật thanh bình và vô cùng lãng mạng. Và rồi cũng trong không gian trà cổ kính tôi được nghe kể để biết thêm nhiều điều về cây chè Shan Tuyết ở trên non xanh Suối Giàng.
Tôi không phải là người hay trà, hay thuốc nên xưa nay ít quan tâm đến thú vui trà thuốc cho lắm. Nhưng buổi nay ở giữa thủ phủ của chè ngon nức tiếng, lại trong không gian thưởng thức trà cực chất ở Suối Giàng như thế này thì không thể không để ý đến những câu chuyện chế tạo chè cùng các thú vui, kỹ thuật pha chế, thưởng thức trà Shan Tuyết. Không biết thứ trà xưa mà cụ Nguyễn Tuân từng kể trong “Những chiếc ấm đất” và “Chén chè trong sương” có phải là trà Suối Giàng hay không nhưng đọc truyện của Nguyễn người ta phải thán phục những nét tài hoa, cầu kỳ và tinh tế trong cách thưởng thức trà của người xưa. Bây giờ trong “Không gian văn hóa trà Suối Giàng” của thời “bốn chấm không”, có thể không thể so sánh được với cách thưởng thức trà của cụ Nguyễn ngày trước nhưng xem ra cái cách thưởng trà ở đây cũng được xem còn khá công phu và còn “nghệ”, chứ không phải cũng “bốn chấm không”. Và không phải chỉ có trong “Không gian văn hóa trà Suối Giàng”, chỉ riêng đầu bản Pang Cáng, chúng tôi thấy có rất nhiều tiệm trà mang đậm chất H’Mông. Mỗi tiệm trà ấy lại có một cách pha trà riêng nhưng dù có pha chế kiểu gì thì mọi người đều thống nhất với nhau về bốn yếu tố làm thành một ấm trà ngon, đó là “nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm”.
Bấy lâu nay, trong thú uống trà, tôi cứ tưởng chè là thứ quan trọng nhất. Hóa ra không phải. Từ xưa, người sành trà đã đúc kết lại nước mới là yếu tố quan trọng nhất. Người ta coi nước là bạn của trà, tri kỷ của trà và gọi “trà hữu”. Nước trong thì mới làm thoát hương vị thanh cao của chè. Nước không đủ trong thì chè ngon đến đâu cũng trở nên kém hương, mất vị. Ngồi nghe kể về thứ bậc của các yêu tố thưởng trà như thế, bất chợt tôi lại nhớ đến câu nói của người xưa về phân loại nước trong nghệ thuật pha trà: “sơn thủy thượng, giang thủy trung, tĩnh thủy hạ”, có nghĩa là: lấy nước chảy ra từ đầu nguồn đun để pha trà là ngon nhất, nước giữa sông là ngon thứ nhì, nước giếng trên núi là ngon thứ ba. Thậm chí, cùng là nước đầu nguồn chảy ra nhưng các “thánh trà” còn rất tinh tế khi phát hiện ra nước ở đầu nguồn chảy xiết dùng pha trà thì nhanh chín nhưng hương không giữ được lâu; nước cuối nguồn yên tĩnh nhưng lắng nhiều tạp chất pha trà sẽ làm mất mùi hương; chỉ có nước giữa dòng vừa lưu thông vừa hiền hòa dùng để pha trà là tốt nhất. Sau chè là cách pha. Xem ra đây mới là khâu thể hiện sự tinh tế và kinh nghiệm của người pha trà. Trước khi pha trà, người ta tráng ấm một lần bằng nước sôi 100 độ C để diệt khuẩn, làm nóng ấm rồi mới cho lượng trà vừa đủ vào trong ấm và mới tiêm nước nóng để tráng trà. Thông thường người pha trà đổ nước ngập lá trà rồi lắc nhẹ vài ba vòng sau đó nhanh chóng rót nước ra chén. Tráng trà xong thì mới đổ nước sôi, để còn khoảng 85 độ C vào trong ấm để hãm trà. Tỉ lệ trà, nước: bình thường khoảng 8 gam trà thì cho khoảng 200 mililit nước. Khi hãm trà chú ý không đổ nước đầy ấm mà phải bớt lại một không gian nhất định ở trong ấm để cho hương trà đưa lên. Trong lúc hãm trà người pha trà lấy chén nước tráng trà lúc trước rót ra đổ từ từ lên nắp ấm cho nước chảy xuống quanh ấm để ấm nóng cả ngoài và trong. Hãm trà trong khoảng gần 45 giây thì trà chín, nếu để lâu trà sẽ đắng, mất đi dưỡng chất. Khi trà chín thì đổ nước ra chén to rồi mới san ra các chén nhỏ để thưởng thức. Nếu bộ chén uống trà có chén hình trụ miệng nhỏ và chén uống miệng rộng thì rót trà ra chén hình trụ rồi đậy chén miệng rộng lên trên. Khi uống thì xoay ngược lại để nước từ chén hình trụ chuyển sang chén miệng rộng. Trước khi thưởng trà phải đưa chén hình trụ lên mũi, hít hà hương trà sau đó nâng chén miệng rộng lên thưởng thức, nhấm nháp từ từ từng ngụm nhỏ. Các công đoạn và kỹ thuật pha tra cơ bản là vậy nhưng trong quá trình pha chế nghệ thuật rót nước của người pha cũng thể hiện đẳng cấp của người sành trà. Người pha trà khéo phải rót nước từ từ, đều tay, không rót mạnh để tránh vỡ lá trà. Thậm chí, khi rót nước còn rót xoáy hoặc rót từ trên cao xuống để lá trà xoay tròn, giải phóng hương thơm… Ngoài ra, ấm chén uống trà phải là ấm chén tử sa, một loại ấm pha trà được làm bằng đất đặc biệt, chúng được nung ở nhiệt độ cao và không tráng men. Nghe nói, pha trà bằng ấm tử sa thì ngoài hương vị là chất hữu cơ có trong lá trà thì nguyên liệu làm ấm còn cung cấp thêm các loại khoáng vi lượng. Các vi lượng này có trong đất làm ấm. Nó bền bỉ và được giải phóng vào nước trà qua mỗi lần pha. Cho nên thưởng trà bằng ấm tử sa nước trà sẽ thơm ngon và đậm đà hương vị. Chỉ bấy nhiêu thôi, xem ra pha trà, thưởng trà quả là một nghệ thuật vô cùng công phu.
Một góc của Bản Phang Cáng ở Suối Giàng
Người H’Mông ở Suối Giàng rất yêu quý và coi trọng cây chè Shan Tuyết. Họ bảo mọi người rằng, cây chè ở đây người không phải trồng mà do trời để lại cho mình. Khi xưa, cây chè chưa phải là một mặt hàng thì họ coi là vị thuốc của trời. Truyền thuyết về cây chè của người H’Mông ở đây kể lại rằng: Trời sai một nàng tiên nữ gieo xuống Suối Giàng một loại hạt. Chẳng bao lâu, những hạt ấy nẩy mầm và mọc thành cây xanh tốt; tán cây ngày càng rộng; lá cây ngày càng xanh, to bằng nửa bàn tay; búp cây ngậm sương trắng như tuyết. Khi ấy có một đoàn người H’Mông từ phương Bắc đi đến. Đường xa, loạn lạc, thiếu ăn và bị bệnh sốt rét, họ nhìn thấy cây xanh tốt mọc giữa chốn non cao liền hái lá ăn thử. Kỳ lạ, ăn xong, họ thấy tỉnh táo. Họ bảo nhau lấy lá đun với nước suối uống hàng ngày. Cứ vậy, ngày này qua ngày khác, tất thảy mọi người đều hết sốt và khỏe mạnh trở lại. Từ đó, họ cho là có trời cứu giúp nên mọi người quyết định ở lại đây với loài cây xanh lá này và đặt tên vùng đất này là “Suối Giàng”, tức là suối của trời nhưng cũng là suối của họ Giàng (họ của người H’Mông ở đây). Tôi đã từng nghe nhiều nơi có chè Shan Tuyết như ở Hà Giang trên núi Tây Côn Lĩnh, Sơn La ở vùng núi Tủa Chùa, Lai Châu ở miền núi cao Phong Thổ, Bắc Kạn ở những đỉnh núi cao Bằng Phúc … Nhưng đến Suối Giàng mới được biết giống chè này ở đây cả về số lượng và chất lượng đều thuộc vào hàng bậc nhất. Giống chè này được người H’Mông ở đây gọi là chè “ngũ cực”; cực khổ - khi trồng và thu hoạch, phải bắc giàn để hái chè; cực sạch – không dùng phân bón hay thuốc hóa học, sống bằng hơi đất và khí trời; cực hiếm - sản lượng ít, mỗi năm thu hoạch ba lần, mỗi lần mỗi cây chỉ cho khoảng chục cân chè tươi; cực ngon – hương thơm, ngọt hậu, bổ dưỡng; cực đắt - giá chè rất cao do hiếm. Chè Shan Tuyết ở Suối Giàng làm hoàn toàn thủ công. Một năm ở Suối Giàng có ba vụ thu hoạch. Vụ xuân, vụ hè và vụ cuối thu. Trong ba vụ ấy, vụ xuân cho ra những loại chè ngon nhất. Người ta bảo, trong mùa đông, tiết trời lạnh giá kết hợp với sương gió giúp cây chè phát triển mạnh mẽ, hấp thụ được tinh hoa đất trời nên búp chè vượt trội; cây chè tích lũy trong mình được nhiều dưỡng chất để sang xuân tạo ra những búp trà tốt nhất, giàu dinh dưỡng và hương vị, thơm dịu dàng, ngọt đậm, hậu vị sâu lắng. Thời trước khi thu hoạch chè, đồng bào chỉ chọn một tôm một lá hoặc một tôm hai lá, đặc biệt cũng có loại hảo hạng thì chỉ có một tôm. Để có được những ấm chè ngon, sáng sớm các cô gái H’Mông phải trèo lên những cành cao của cây cổ thụ chênh vênh trên núi, tận tay hái, ngắt từng búp chè mập mạp. Khi hái phải thật khéo để lá, búp chè không bị rơi mất lớp phấn (tuyết) màu trắng phủ trên bề mặt. Lá chè càng trắng trà càng ngon. Chè hái xong lại được đồng bào chế biến bằng những hương thức bí truyền, công phu và tỉ mỉ. Bây giờ công nghệ làm trà đã phát triển, tùy vào búp chè khi hái và cách chế biến mà chè Suối Giàng được chia ra thành nhiều loại: Lục trà (trà xanh truyền thống, một tôm hai lá, nước trà vàng sánh, thơm nồng, tiền chát hậu ngọt); Bạch trà (đây là loại có giá trị cao, làm từ búp một tôm, được làm khô tự nhiên trong 96 giờ với điều kiện nhiệt độ, độ ẩm đủ tiêu chuẩn để trà bị ô xi hóa; khi pha, nước màu vàng nhạt, có váng mỏng nổi lên mặt nước; chát nhẹ, ngọt hậu sâu); Hoàng trà (chọn búp non, một tôm hai lá; sao luôn khi chưa ráo nhựa rồi đem cấp ẩm, ủ trong một ngày một đêm để ô xi hóa; rồi đem sấy nhẹ; nước vàng sánh; hương thơm dịu, phảng phất hương hoa tự nhiên, vị hơi chát nhưng ngọt thanh kéo dài), Hồng trà (búp chè non một tôm, một lá; cấp ẩm, ủ trong 46 giờ để ô xi hóa tự nhiên; khi pha, nước màu hổ phách, nâu đỏ; hương thơm dịu nhẹ, quyến rũ; vị hậu ngọt ngào sâu lắng). Đặc biệt, so với các loại chè khác, chè ở Suối Giàng có thể pha tới bảy, tám lần nước mà vẫn còn hương vị. Mẫu số chung của chè Shan Tuyết ở Suối Giàng là vậy còn về độ ngon của chè như thế nào lại phải phụ thuộc vào thời tiết, thu hoạch, kỹ thuật chế biến của từng “nghệ nhân”. Ví như có người nói rằng, muốn có trà ngon thì phải hái chè từ lúc sương chưa tan (thời điểm này búp chè sẽ tích tụ được nhiều hương); chè thượng hạng là chè chỉ có một tôm và hái trước tết Hàn Thực; chè cực phẩm là loại chè cũng chỉ có một tôm nhưng hái sau tết Thanh Minh …
Chúng tôi về thăm thú Suối Giàng vào “mùa vàng trên non” (mùa lúa chín) nên không được ngắm nhìn một “mùa xanh trên núi” (vụ thu hoạch chè). Ngược dốc, đi vòng quanh vách núi lên thăm các vườn chè cổ thụ chỉ thấy những nương chè xanh biếc còn những cây chè cổ thụ Shan Tuyết đang sừng sững giữa trời ngậm sương, phơi nắng chờ đón một ngày cuối thu để được tận dâng cho đời những búp non thơm thảo. Chuyến lãng du được mùa thóc nhưng lỗi mùa chè cho nên không được ngắm nhìn những cô gái H’Mông xinh đẹp, đảm đang với váy xòe hoa, đèo gùi (lù cờ) bên hông, vắt vẻo trên những cây chè cổ thụ, hai tay thoăn thoắt, nhẹ nhàng bấm từng búp lá. Dẫu vậy, chẳng được ngắm nhìn vẻ đẹp đảm đang của những cô gái vùng cao Suối Giàng nhưng cũng đã được thưởng thức hương trà ngọt ngào, quyến rũ trên xứ tuyết. Cũng như vị trà ngọt hậu sâu lắng kia, dư vị của miền đất chè Suối Giàng sẽ còn nhiều lắng đọng.
Phan Anh
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/tan-man-chuyen-cay-che-o-suoi-giang-a30339.html