Sự kiện diễn ra đúng dịp kỷ niệm 80 năm Quốc dân Đại hội, như một nhịp cầu nối liền hiện tại với mùa thu lịch sử, khi từ nơi đây, tiếng gọi Tổng khởi nghĩa vang vọng khắp non sông, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc.
Xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh: CTV
Tân Trào nằm trong thung lũng của chiến khu Việt Bắc, tên gọi chung từ năm 1945 khi hợp nhất hai xã Tân Lập và Hồng Thái (trước đây là Kim Long và Kim Châu). Vùng đất này rừng núi trùng điệp, đồi núi chiếm 90% diện tích và được che phủ bởi thảm rừng nhiệt đới rậm rạp. Địa thế hiểm yếu như một thành lũy tự nhiên: các dãy núi trùng điệp đan cài tạo thành “bức màn” che chắn đường vào căn cứ, vừa bảo vệ vừa cung cấp gỗ, tre, mây, nguyên liệu để dựng lán trại, hầm hào kháng chiến.
Đường xá dù hiểm trở nhưng linh hoạt, từ đây có thể bí mật liên lạc với các tỉnh miền núi phía Bắc cũng như tỏa xuống đồng bằng. Nhờ hệ thống giao thông đan xen núi rừng và những lối mòn do chính người dân khai phá, lực lượng ta có thể bí mật di chuyển, liên lạc với đồng bào vùng thượng du, đồng thời men xuống đồng bằng mỗi khi cần thiết. Dân gian Tuyên Quang từng mô tả vùng đất này bằng câu ca: “Kim Long đất hiểm tứ bề/ Kẻ thù muốn chết thì về Kim Long”.
Không chỉ địa lợi, Tân Trào còn hội đủ thiên thời và nhân hòa. Đây là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số Tày, Dao, Nùng… vốn giàu truyền thống yêu nước. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, người dân Tuyên Quang đã nổi dậy chống ách cai trị của thực dân phong kiến. Trong những năm 1930, 1940, phong trào cách mạng và các đội du kích Cứu quốc ở Tuyên Quang phát triển mạnh; cơ sở Việt Minh hình thành ở nhiều làng bản, trong đó có Kim Long – Tân Trào.
Trước Cách mạng, các đội du kích ở đây đã âm thầm rèn giáo mác, tập võ, tổ chức các buổi diễn thuyết và truyền đơn, chuẩn bị tinh thần quần chúng cho ngày đứng dậy. Quần chúng bí mật tuyên thệ, luyện tập vũ trang, sẵn sàng chờ thời cơ khởi nghĩa. Đồng bào tự túc lương thực, trồng lúa, ngô, sắn và nuôi gia súc, vừa nuôi sống mình vừa đóng góp nuôi quân.
Nhờ hội tụ đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn Tân Trào làm nơi đứng chân chỉ đạo cách mạng trong giờ phút quyết định của lịch sử. Từ tháng 5/1945, Tân Trào trở thành mái nhà an toàn che chở cơ quan đầu não của Đảng và các lực lượng cứu quốc khắp nơi đổ về.
Khi chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn cuối, phát-xít Nhật đảo chính Pháp (tháng 3/1945), mở ra khoảng trống quyền lực ở Đông Dương. Nhận thấy thời cơ giành độc lập đã tới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương rời Pác Bó (Cao Bằng) chuyển về Tuyên Quang để gần Trung ương hơn, trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Ngày 4/5/1945, Bác Hồ khởi hành từ Cao Bằng và chiều tối 21/5/1945, Người đặt chân đến Kim Long. Cả bản với chỉ hơn hai chục mái nhà sàn bỗng rộn ràng khi đón đoàn cán bộ từ Pác Bó về. Bà con thấy một cụ già dáng người mảnh khảnh, nước da rám nắng, không biết đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh nên trìu mến gọi là “ông Ké”. Các đồng chí đi cùng tôn kính gọi là “đồng chí Già”.
Bác Hồ tạm ở nhà sàn của ông Nguyễn Tiến Sự, Chủ nhiệm Việt Minh xã Kim Long, nơi Người làm việc trong những ngày đầu ở Tân Trào (21–31/5/1945). Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở nhờ nhà ông Hoàng Trung Dân gần đó. Chính tại nhà ông Dân, Quân lệnh số 1 kêu gọi Tổng khởi nghĩa đã được soạn thảo và đánh máy.
Những ngày cuối tháng 5 lịch sử, Kim Long trở thành “thủ đô” của cách mạng. Dân bản nuôi giấu nhiều cán bộ và đón các đại biểu từ Nam, Bắc, Lào, Campuchia… bí mật đổ về chuẩn bị cho Quốc dân Đại hội. Đêm đêm, giữa núi rừng Tân Trào, từng đoàn người và đội quân cứu quốc tập dượt diễu hành, “rầm rập như là đất rung”, như lời các cụ cao niên kể lại.
Không khí cách mạng sục sôi khắp bản làng, “Kim Long sục sôi như chảo lửa”, mọi nhà hăng hái góp gạo nuôi quân, rèn vũ khí thô sơ, sẵn sàng chờ giờ Tổng khởi nghĩa. Trong những đêm chuẩn bị, ánh lửa trại bập bùng quanh sân đình soi rõ gương mặt quyết tâm của những chàng trai cô gái Tân Trào; ai nấy đều tin tưởng ngày mai sẽ độc lập.
Đầu tháng 6/1945, hội nghị cán bộ tại Tân Trào quyết định thành lập Khu Giải phóng gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Tân Trào được chọn làm Thủ đô của Khu Giải phóng - căn cứ địa trung tâm lãnh đạo cách mạng cả nước. Để tiện chỉ đạo, Bác Hồ rời nhà ông Sự, chuyển lên sườn núi Nà Lừa, thuộc thôn Tân Lập, dựng một chiếc lán nhỏ bằng gỗ, mái lá cọ nép dưới tán rừng già.
Lán chia làm hai gian: bên trong là nơi nghỉ ngơi, bên ngoài là chỗ làm việc và tiếp khách. Người chọn vị trí lán rất kỹ: gần nguồn nước, gần dân, xa quốc lộ, thuận đường tiến và tiện đường thoái. Lán Nà Nưa không xa bản làng, dưới chân có dòng suối Nà Nưa cung cấp nước mát, lại kín đáo.
Chính tại đây, ngày 4/6/1945, Bác Hồ chủ trì Hội nghị quân sự cách mạng, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân và chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Những quyết sách quan trọng nhen nhóm từ mái lán nhỏ bé dưới ánh đèn dầu và bên chén chè xanh dân bản vừa đem tới.
Ba tháng ở chiến khu Tân Trào là khoảng thời gian Bác Hồ cùng Trung ương chạy đua với thời cơ. Từ mái lán Nà Nưa, Người theo dõi sát diễn biến trong nước và quốc tế. Khi hay tin Liên Xô tuyên chiến với phát-xít Nhật và quân Nhật thất bại nhanh chóng ở Mãn Châu (8/8/1945), rồi ngày 13/8/1945 Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Bác nhận định: “Thời cơ thuận lợi đã tới!” và yêu cầu phải hành động ngay.
Lúc này, do ở rừng lâu ngày với cơm cháo kham khổ, Bác lâm bệnh sốt rét nặng. Người sốt cao mê man nhiều ngày, thuốc men chỉ có ít ký ninh không đủ công hiệu. Tỉnh dậy sau một cơn mê, vị lãnh tụ gượng dậy gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến, giọng yếu nhưng dứt khoát: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”.
Lời dặn đó càng thúc giục cả chiến khu quyết tử. May mắn nhờ một ông lang người Tày tới thăm, cho Bác uống thuốc bí truyền và ăn cháo nóng, cơn sốt dần lui. Bác bình phục kịp thời để chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, khiến nhiều người tin rằng đất thiêng đã che chở cho Người.
Từ ngày 13-15/8/1945, Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc tại lán Nà Nưa, khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới” và ra quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. Ngay sau đó, chiều 16/8, tại đình Tân Trào, Quốc dân Đại hội – đại hội đại biểu quốc gia – khai mạc. Hơn 60 đại biểu đại diện các đảng phái, đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo và kiều bào về dự dưới mái đình nhỏ lợp lá cọ.
Suốt hai ngày làm việc (16-17/8), Đại hội nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng và quốc ca “Tiến quân ca”. Đại hội cũng bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch - tiền thân của Chính phủ Cách mạng lâm thời sau này. Các đại biểu cảm nhận được “luồng rung động của toàn dân; lệnh Tổng khởi nghĩa truyền ra, Đại hội như đang cùng nhân dân chiến đấu”.
Sáng 17/8/1945, trước sân đình Tân Trào, lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời diễn ra trang nghiêm dưới cờ đỏ sao vàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dõng dạc hô lời tuyên thệ độc lập: “Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước. Xin thề!”. Lời thề ấy nhanh chóng biến thành hành động khắp cả nước.
Cùng ngày 18/8/1945, Hồ Chủ tịch viết “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa” gửi quốc dân đồng bào, thúc giục đồng bào vùng lên: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.
Chiều 16/8/1945, tại gốc đa Tân Trào, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc Quân lệnh số 1, phát động lễ xuất quân. Sau lời hô “Tiến về Hà Nội!”, từng hàng quân Giải phóng trong bộ quần áo nâu, đầu quấn khăn đỏ sao vàng, súng chắc trong tay rời gốc đa tiến về đồng bằng.
Cuộc Tổng khởi nghĩa bùng nổ như vũ bão. Chỉ trong mười ngày, chính quyền về tay nhân dân ở khắp mọi miền. Ngày 25/8/1945, đoàn quân giải phóng tiến vào Hà Nội. Trưa ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi nhanh gọn của Cách mạng Tháng Tám có sự đóng góp to lớn của chiến khu Tân Trào - Thủ đô lâm thời của Khu Giải phóng. Nơi đây đã chở che an toàn cho Tổng bộ Việt Minh, là trung tâm đầu não chỉ huy Tổng khởi nghĩa và cũng là “lò lửa” cách mạng hun đúc ý chí toàn dân. Nhân dân Tuyên Quang, trực tiếp là bà con các dân tộc Tân Trào, đã hết lòng bảo vệ Bác Hồ và Trung ương, dốc của cải, sức người cho cách mạng. Những cụ già, em nhỏ giã gạo nuôi quân, canh gác báo tin, chở che cán bộ như giữ vật báu.
Bác Hồ từng căn dặn bà con: “Làm cách mạng còn quý hơn tiền, nên càng phải bí mật, cất giữ cẩn thận hơn!”. Nhờ giữ vững bí mật và hậu phương vững chắc, căn cứ Tân Trào đã đứng vững trước mọi cuộc lùng sục của kẻ địch. Thực dân Pháp và tay sai từng nhiều lần kéo quân đánh úp Tân Trào từ các ngả nhưng đều bị chặn đứng. Tân Trào xứng đáng là vùng đất thiêng hội tụ linh khí núi rừng và khí phách cách mạng của toàn dân tộc. Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp bùng nổ (19/12/1946). Một lần nữa Tuyên Quang được chọn làm thủ đô kháng chiến và Tân Trào tiếp tục là trung tâm căn cứ địa Việt Bắc.
Suốt 9 năm trường kỳ, Bác Hồ cùng các cơ quan Trung ương nhiều lần trở lại Tân Trào lãnh đạo cuộc kháng chiến cho tới ngày thắng lợi. Đình Tân Trào, lán Nà Nưa, đình Hồng Thái, hang Bòng… trở thành những địa danh bất tử gắn liền với tên tuổi của Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng… Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lại quê hương cách mạng, xúc động gặp gỡ bà con từng cưu mang Người.
Ngày nay, Tân Trào đã trở thành Khu di tích Quốc gia đặc biệt, là điểm “về nguồn” thiêng liêng thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Cây đa Tân Trào vẫn xanh tốt vươn tán lá giữa quảng trường làng Tân Lập - biểu tượng sống động của niềm tự hào dân tộc. Đình Tân Trào, đình Hồng Thái, lán Nà Nưa… được trùng tu nguyên trạng, đón khách về thăm, lắng nghe chuyện kể về thời oanh liệt. Nhiều nhân chứng lịch sử vẫn còn minh mẫn lưu giữ ký ức mùa thu 1945, truyền lại cho thế hệ con cháu. Chính sự tri ân quá khứ và giáo dục truyền thống ấy làm nên sức mạnh trường tồn của quê hương cách mạng.
Tháng 8 này, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc dân Đại hội Tân Trào (1945–2025), Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang long trọng khánh thành Tượng đài “Bác Hồ ở Tân Trào” tại Quảng trường Tân Trào. Công trình sừng sững giữa đất thiêng là tấm lòng thành kính “uống nước nhớ nguồn” đối với vị Cha già dân tộc - Người đã chọn nơi đây làm điểm tựa để chở che và dẫn dắt cách mạng tới thắng lợi vẻ vang. Âm vang mùa thu cách mạng năm nào vẫn còn vang vọng mãi trên quê hương anh hùng, nhắc nhở thế hệ hôm nay về một thời đấu tranh gian khổ mà hào hùng của cha ông để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Khổng Hà