Ngày 26-12, TAND TP.HCM tuyên án phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là một ngân hàng và bị đơn là vợ chồng ông THS.
HĐXX phúc thẩm đã tuyên chấp nhận một phần kháng cáo của ngân hàng và công ty N (Công ty môi giới) cùng một phần kháng nghị của Viện trưởng VKSND khu vực 7 - TP.HCM, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để xét xử lại.
HĐXX phúc thẩm nhận định, về thẩm quyền, văn bản thỏa thuận giữa vợ chồng ông Sơn và Công ty N phát sinh từ hợp đồng mua bán biệt thự tại TP Phan Thiết (cũ), các bên có thỏa thuận phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài khi có tranh chấp.
Tuy nhiên, xét thấy tranh chấp của ông Sơn và Công ty N phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, nên thẩm quyền giải quyết được điều chỉnh bởi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật trọng tài. Trong vụ án, ngân hàng là người khởi kiện; tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án ông S không phản đối. Cạnh đó, phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài chỉ giải quyết khi người tiêu dùng lựa chọn, tương tự tinh thần Án lệ số 42 của HĐTP TAND Tối cao (chỉ khác là người tiêu dùng không phải là người khởi kiện). Do đó, tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ kiện này.
Theo HĐXX, ngân hàng khởi kiện hợp đồng tín dụng, bị đơn đồng ý trả nợ và chỉ yêu cầu giảm lại. Cấp phúc thẩm cho rằng, giả sử hợp đồng tín dụng bị tuyên vô hiệu, thì sự thống nhất hai bên cũng là hướng giải quyết hậu quả khi vô hiệu hợp đồng, nhưng cấp sơ thẩm lại tuyên hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu khi không có yêu cầu là vi phạm Khoản 1 Điều 5 BLTTDS.
Cấp sơ thẩm đã nhận định về thực trạng tài sản thế chấp đã ảnh hưởng đến chủ đầu tư, nhưng không đưa chủ đầu tư vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68 BLTTDS. Cấp phúc thẩm cho rằng, tòa án phải triệu tập chủ đầu tư với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Bản án sơ thẩm nhận định dự án không có thật là nhận định chủ quan và việc chỉ xác minh dự án ở UBND xã là thiếu căn cứ. Căn cứ vào vi bằng hình ảnh do ngân hàng cung cấp trong giai đoạn phúc thẩm đã chứng minh biệt thự là có thật, khác hoàn toàn với nhận định cấp sơ thẩm "bất động sản không có thật".
Về nhận định hợp đồng tín dụng vô hiệu, cấp phúc thẩm cho rằng, căn cứ quy định mà cấp sơ thẩm áp dụng Khoản 2 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã không còn hiệu lực và thay bằng Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
Cấp phúc thẩm cho rằng, tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ... nên phải hủy bản án sơ thẩm TAND khu vực 7 - TP.HCM để giải quyết lại vụ án.
Vay tiền ngân hàng mua biệt thự
Theo nội dung vụ án, ngày 25-11-2020, một ngân hàng và vợ chồng ông S ký hợp đồng cho vay 3,6 tỉ đồng để đặt cọc theo Văn bản thỏa để được mua biệt thự ký giữa vợ chồng ông S và công ty N.
Thời hạn vay: 36 tháng tính. Tài sản thế chấp là tất cả các quyền tài sản thuộc quyền sở hữu/sử dụng của vợ chồng ông S phát sinh từ văn bản thỏa thuận giữa ông S với Công ty N.
Quá trình sử dụng vốn vay, vợ chồng ông S thanh toán nợ cho ngân hàng đến tháng 12-2022. Sau đó, không tiếp tục thanh toán nợ vay như Hợp đồng cho vay đã ký. Dư nợ tạm tính đến ngày 30-9-2025 là hơn 5,3 tỉ đồng.
Ngân hàng đã nhiều lần mời vợ chồng ông S lên làm việc, tạo điều kiện về thời gian và đề nghị thanh toán nợ vay nhưng vợ chồng ông S không trả. Do đó, phía ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông S để yêu cầu thanh toán các khoản nợ.
Phía bị đơn trình bày, thống nhất với phần trình bày của ngân hàng về việc các bên ký kết hợp đồng tín dụng và khoản tiền ông bà nợ ngân hàng. Bị đơn có nguyện vọng mong muốn ngân hàng xem xét và cắt giảm lãi cũng như lãi quá hạn để ông bà có thời gian trả nợ cho ngân hàng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty N vắng mặt tại phiên tòa.
Tòa sơ thẩm đã tuyên hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn và bị đơn đều vô hiệu, bác yêu cầu khởi kiện của ngân hàng. Buộc Công ty N phải trả lại cho ngân hàng 3,65 tỉ đồng nợ gốc, sau khi đã cấn trừ số tiền 900 triệu đồng, số tiền phải trả là hơn 2,7 tỉ đồng.
Sau phiên sơ thẩm, ngân hàng và Công ty N kháng cáo. VKSND khu vực 7 - TP.HCM kháng nghị bản án đề nghị TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
SONG MAI