Về phạm vi điều chỉnh, Thông tư liên tịch này quy định về phối hợp giữa các cơ quan, người có thẩm quyền trong Quân đội và ngoài Quân đội trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Về đối tượng áp dụng là các cơ quan có thẩm quyền trong Quân đội và ngoài Quân đội, gồm: Cơ quan điều tra của CAND, Cơ quan điều tra trong QĐND, Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương; VKSND các cấp, Viện kiểm sát quân sự các cấp; TAND các cấp, Tòa án quân sự các cấp; các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Công an xã, phường, đặc khu, Đồn Công an.
Bên cạnh đó, đối tượng áp dụng của Thông tư liên tịch còn gồm: Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan nêu trên; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Thông tư liên tịch cũng nêu rõ các nguyên tắc phối hợp, đó là: Tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đúng thời hạn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, bảo đảm bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật và quy định của mỗi cơ quan. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Quang cảnh một Lễ ký ban hành các thông tư liên tịch quy định về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, VKSND tối cao và TAND tối cao tháng 2/2025. (ảnh minh họa)
Trong phối hợp trực tiếp kiểm sát việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, Thông tư liên tịch nêu rõ: Viện kiểm sát quân sự khu vực trực thuộc các Viện kiểm sát quân sự quân khu chủ trì, phối hợp với VKSND khu vực trực tiếp kiểm sát việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của Biên phòng Cửa khẩu cảng, Đồn biên phòng thuộc Bộ đội biên phòng; Hải đoàn, Hải đội và Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển đóng quân trên địa bàn.
Viện kiểm sát quân sự quân khu chủ trì, phối hợp với VKSND cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng; Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Đoàn Trinh sát và Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy của lực lượng Cảnh sát biển đóng quân trên địa bàn.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương quyết định phân công thực hiện trực tiếp kiểm sát việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của Cục Trinh sát; Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm; Đoàn Trinh sát và Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm của Bộ đội biên phòng; Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; Cục Nghiệp vụ và Pháp luật Cảnh sát biển.
Chậm nhất 15 ngày trước ngày tiến hành trực tiếp kiểm sát, Viện kiểm sát quân sự phải gửi quyết định, kế hoạch trực tiếp kiểm sát, văn bản đề nghị cung cấp thông tin, số liệu kèm theo đề cương báo cáo đến cơ quan được kiểm sát. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, kế hoạch, văn bản đề nghị, cơ quan được kiểm sát phải gửi báo cáo bằng văn bản đến Viện kiểm sát quân sự.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày kết thúc việc trực tiếp kiểm sát, Viện kiểm sát quân sự phải gửi kết luận trực tiếp kiểm sát đến cơ quan được kiểm sát, VKSND đã phối hợp và Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan được kiểm sát nhận được kết luận trực tiếp kiểm sát, nếu không đồng ý với nội dung kết luận hoặc có ý kiến khác, cơ quan được kiểm sát có quyền kiến nghị bằng văn bản. Trường hợp Viện kiểm sát giữ nguyên kết luận, cơ quan được kiểm sát có quyền kiến nghị bằng văn bản với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét, giải quyết. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là quyết định có hiệu lực pháp luật.
VKSND cấp tỉnh, VKSND khu vực có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát quân sự trong việc cung cấp thông tin, số liệu về kiểm sát việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển do mình thực hiện theo đề nghị của Viện kiểm sát quân sự trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị.
Trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc phát hiện, tiếp nhận, chuyển giao nguồn tin về tội phạm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển thì Viện kiểm sát quân sự, VKSND phối hợp trực tiếp kiểm sát đột xuất theo quy định của pháp luật.
Về phối hợp trong giai đoạn truy tố, trong giai đoạn truy tố, nếu Viện kiểm sát phát hiện có dấu hiệu tội phạm hoặc người phạm tội mới nhưng không liên quan đến vụ án đang giải quyết mà thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra trong Quân đội hoặc ngoài Quân đội, thì trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định, Viện kiểm sát ban hành văn bản yêu cầu, gửi kèm hồ sơ, tài liệu (bản chính hoặc bản sao y), đồ vật, tài sản có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát trong hoặc ngoài Quân đội xác định vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình thì thực hiện chuyển vụ án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trước khi ban hành quyết định chuyển vụ án, Viện kiểm sát trao đổi, thống nhất bằng văn bản với Viện kiểm sát có thẩm quyền. Trường hợp có vướng mắc, tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án, Viện kiểm sát đang giải quyết vụ án chủ động tổ chức họp với Viện kiểm sát có liên quan trao đổi, thống nhất thẩm quyền; nếu không thống nhất được thì cùng báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định.
Các trường hợp chuyển vụ án giữa Viện kiểm sát quân sự và VKSND để truy tố theo thẩm quyền, trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày kết thúc giải quyết vụ án trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát nhận vụ án có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết vụ án trong giai đoạn truy tố cho Viện kiểm sát đã chuyển vụ án.
Thông tư liên tịch gồm 3 chương, 18 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/12/2025, thay thế Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BQP- BCA ngày 20/10/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội và ngoài Quân đội.
P.V