Hiện đại hóa hạ tầng, nâng cao năng lực logistics Việt Nam
Thúc đẩy vận tải đa phương thức để giảm áp lực hạ tầng
Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Thị trường Nước ngoài, Bộ Công Thương, cho rằng, logistics và xuất nhập khẩu có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ, trong đó logistics là nền tảng thúc đẩy sự phát triển của xuất nhập khẩu, còn xuất nhập khẩu tạo động lực cho logistics. Với chỉ số hiệu quả logistics xếp thứ 43/139 toàn cầu và thứ năm trong ASEAN, Việt Nam ghi nhận doanh thu ngành logistics từ 40 đến 50 tỷ USD hàng năm, với tốc độ tăng trưởng khoảng 16%. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 515 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2025 đã khẳng định vai trò quan trọng của logistics trong việc hỗ trợ hoạt động thương mại liên tục đạt kỷ lục.
Tuy nhiên, bà Hiền cho rằng, các xung đột địa chính trị đã khiến tuyến vận tải đường sắt Á – Âu tạm dừng, trong khi luồng hàng qua Trung Đông và Biển Đỏ phải chuyển hướng, làm tăng chi phí vận tải. Để giải quyết, chúng ta cần đa dạng hóa phương thức vận tải, đặc biệt là khai thác vận tải đường sắt với các dự án lớn như tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam và tuyến Lào Cai – Hải Phòng, nhằm kết nối thị trường phía Bắc với cảng biển Hải Phòng, giảm áp lực lên hạ tầng đường bộ.
Ông Juergen Gerber, Chủ tịch Tiểu ban Hậu cần Logistics, EuroCham, cho biết, chi phí logistics tại Việt Nam chiếm khoảng 14-15% GDP, cao hơn mức trung bình thế giới là 9-10%. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, ông Gerber cho rằng, việc phát triển vận tải đa phương thức, bao gồm đường sắt Lào Cai – Hải Phòng và đường thủy nội địa, nhằm giảm tải cho đường bộ, vốn đang chịu áp lực lớn tại các khu vực như cầu Tân Vũ ở Hải Phòng. Ông cũng khuyến nghị đầu tư vào các trung tâm logistics (ICD) và cảng cạn, đồng thời thúc đẩy số hóa chuỗi cung ứng để tăng hiệu quả và minh bạch. Việc tích hợp các giấy phép con vào hệ thống một cửa quốc gia và xây dựng nền tảng dữ liệu lớn hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI) được xem là giải pháp then chốt để tối ưu hóa vận tải, giảm chi phí và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Ông Đinh Xuân Khánh, Giám đốc Trung tâm Logistics Tân Cảng Sài Gòn thì cho rằng, vận tải đa phương thức là giải pháp cốt lõi để giải quyết tình trạng quá tải hạ tầng. Năm 2024, sản lượng container qua các cảng biển Việt Nam đạt khoảng 20 triệu TEU, với TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu chiếm 65%, Hải Phòng và Quảng Ninh khoảng 6 triệu TEU, và miền Trung khoảng 800.000 TEU.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, cụm cảng nước sâu Cái Mép tăng trưởng 25%, TP. Hồ Chí Minh 10-12%, Hải Phòng 18-20%. Tuy nhiên, hạ tầng đường bộ tại các khu vực như cầu Tân Vũ đang chịu áp lực lớn do kẹt xe và ách tắc. Ông Khánh cho rằng, phát triển đường thủy nội địa, với các ICD tại Hải Phòng, Quế Võ, kết nối bằng sà lan từ Bắc Ninh, Ninh Bình, Phú Thọ đến cảng Đình Vũ, Lạch Huyện. Một sà lan chở 128 container sẽ giúp giảm chi phí ít nhất 30% so với vận tải đường bộ. Tuyến đường sắt Lào Cai – Hải Phòng cũng được ông xem là cấp thiết để kết nối hàng hóa xuyên biên giới với Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh thương mại Việt – Trung ngày càng phát triển.
Hiện đại hóa hạ tầng và số hóa chuỗi cung ứng
Bà Nguyễn Thảo Hiền cho rằng, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa các loại hình cảng và hiện đại hóa, số hóa kho bãi, cảng biển là hướng đi chiến lược để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Phát triển logicstic cần tập trung vào hai chủ điểm: thúc đẩy vận tải đa phương thức và nâng cao năng lực hệ thống logistics thông qua hiện đại hóa hạ tầng, bao gồm cảng cạn, cảng miễn thuế và số hóa chuỗi cung ứng. Những giải pháp này nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng ổn định trong bối cảnh thương mại toàn cầu đạt 33.000 tỷ USD năm 2024, tăng 3,3%, nhưng vẫn đối mặt với nhiều bất ổn từ xung đột địa chính trị và thay đổi chính sách. Bà Hiền cho rằng, các doanh nghiệp logistics cần đầu tư thêm chi phí để chuyển đổi theo hướng bền vững, tích hợp các yếu tố xã hội vào hoạt động kinh doanh, từ đó đáp ứng yêu cầu minh bạch và xanh hóa của thị trường quốc tế.
Dưới góc nhìn của mình, ông Juergen Gerber cho rằng, hiện đại hóa hạ tầng và số hóa là yếu tố then chốt để giảm chi phí logistics và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ông khuyến nghị tích hợp các giấy phép con vào hệ thống một cửa quốc gia để rút ngắn thời gian thông quan, đồng thời xây dựng nền tảng dữ liệu lớn hỗ trợ AI để tối ưu hóa vận tải và dự đoán gián đoạn chuỗi cung ứng. Sự hợp tác giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và hiệp hội được ông xem là cần thiết để áp dụng các thực tiễn tốt nhất, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Ông Gerber cũng nhấn mạnh rằng việc phát triển các ICD và cảng cạn không chỉ giảm áp lực lên cảng biển mà còn hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan, từ đó nâng cao hiệu quả logistics.
Để hỗ trợ hiện đại hóa hạ tầng, ông Đinh Xuân Khánh đề xuất các chính sách cụ thể bao gồm: coi đất cho ICD và cảng cạn là đất giao thông nhằm giảm chi phí thuê đất, khuyến khích đầu tư và tránh tình trạng giữ đất làm bất động sản. Ông cũng kêu gọi đơn giản hóa thủ tục thông quan thông qua tích hợp giấy phép con vào hệ thống một cửa quốc gia và hỗ trợ hậu kiểm. Việc thành lập Ủy ban điều phối vùng và quốc gia để phối hợp giữa các bộ như Công Thương, Tài chính, Xây dựng được ông xem là cần thiết để thống nhất quy hoạch và chính sách logistics. Ngoài ra, ông Khánh cho biết, Tân Cảng Sài Gòn đã triển khai hệ thống iPort, eDO, eIA và thanh toán QR để hỗ trợ số hóa, nhưng cần sự hợp tác giữa các doanh nghiệp để xây dựng nền tảng dữ liệu chung, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả. Ông cũng đề xuất thu hút hàng trung chuyển và quá cảnh bằng cách đơn giản hóa quy trình và điều chỉnh chi phí hạ tầng hợp lý, nhằm biến TP. Hồ Chí Minh thành trung tâm logistics khu vực.
Trần Hương