Đại biểu Hà Sỹ Huân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) thảo luận tại hội trường.
Tham gia thảo luận, đại biểu Hà Sỹ Huân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) thống nhất cao chủ trương hợp nhất ba Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, để hình thành Chương trình giai đoạn 2026 - 2035.
Theo đại biểu Hà Sỹ Huân, Khoản 3 Điều 1 quy định tổng vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026-2030 là 500 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Trung ương 100 nghìn tỷ (20%), ngân sách địa phương 400 nghìn tỷ (80%); tỷ trọng này chưa tương xứng với vai trò “chủ đạo” của ngân sách Trung ương. Ngược lại, tỷ lệ địa phương phải đối ứng quá cao sẽ dồn gánh nặng tài chính lên các tỉnh khó khăn, nhất là địa bàn dân tộc thiểu số, miền núi - nơi hạn chế năng lực ngân sách, tỷ lệ hộ nghèo cao, khó đảm đương mức đối ứng 80% như dự thảo nêu.
Đại biểu Hà Sỹ Huân đề nghị cần rà soát khả năng cân đối ngân sách Trung ương, xem xét điều chỉnh cơ cấu vốn để bảo đảm Trung ương thực sự giữ vai trò dẫn dắt, cả về tỷ trọng lẫn tính định hướng trong triển khai Chương trình; qua đó tạo nền tảng nguồn lực đủ mạnh để thực hiện hiệu quả các mục tiêu lớn đến năm 2035.
Đại biểu Hà Sỹ Huân tán thành nguyên tắc ưu tiên vốn ngân sách Trung ương cho vùng lõi nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, đại biểu Hà Sỹ Huân lưu ý các nguyên tắc tại Khoản 4 Điều 1 mới dừng ở mức khái quát, thiếu tiêu chí định lượng cụ thể. Nếu không “lượng hóa” rõ đối tượng thụ hưởng và mức độ ưu tiên, rất dễ tái diễn tình trạng phân bổ dàn trải, cào bằng giữa các địa bàn, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Về cơ chế quản lý, đại biểu Hà Sỹ Huân đánh giá cao định hướng “Trung ương quản lý tổng thể, ban hành cơ chế, hướng dẫn, giám sát; phân cấp, phân quyền triệt để đi đôi với phân bổ nguồn lực” theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Đại biểu cho rằng cần làm rõ hơn và thực hiện triệt để tinh thần này.
Theo đại biểu Hà Sỹ Huân, dự thảo hiện phân cấp cho HĐND, UBND cấp tỉnh quyết định phân bổ, lồng ghép nguồn lực và tổ chức thực hiện Chương trình. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm giai đoạn trước, thủ tục ở cấp tỉnh còn rườm rà, mất thời gian, và có thể dẫn đến đầu tư manh mún, dàn trải. Trong khi đó, các hợp phần của Chương trình chủ yếu là hạ tầng, sinh kế, công trình dân sinh tại xã, thôn, bản - nơi chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp quản lý địa bàn, hiểu rõ nhất về điều kiện văn hóa, địa hình, sinh kế và nhu cầu người dân.
Trên tinh thần “người dân là chủ thể”, đại biểu Hà Sỹ Huân đề nghị phân cấp mạnh mẽ hơn cho cấp xã, coi cấp xã là cấp quyết định và tổ chức thực hiện Chương trình; còn cấp tỉnh giữ vai trò định hướng, kiểm tra, giám sát và hỗ trợ kỹ thuật, thủ tục hành chính. Cụ thể, chính quyền cấp xã cần được trao quyền quyết định danh mục, kế hoạch triển khai, lựa chọn mô hình ưu tiên theo từng giai đoạn; đồng thời có thẩm quyền lồng ghép, phối hợp các nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án khác tại địa bàn để tránh trùng lặp, dàn trải hoặc bỏ sót nhiệm vụ.
Đại biểu Nguyễn Thị Huế (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) tham gia thảo luận.
Đồng thuận với việc tích hợp ba Chương trình mục tiêu quốc gia và thống nhất với mục tiêu tổng quát dự thảo đề ra, đại biểu Nguyễn Thị Huế (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên) nhấn mạnh: Đúng hướng là điều kiện cần, còn điều kiện đủ nằm ở các chỉ tiêu cụ thể và khả năng thực thi thực tế. Đối với chỉ tiêu thu nhập, đại biểu đánh giá đây là “thước đo” quan trọng phản ánh thực chất thành quả giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.
Theo dự thảo Nghị quyết, đến năm 2030, thu nhập bình quân khu vực nông thôn phấn đấu tăng 2,5-3 lần so với năm 2020; thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt bằng 2/3 mức bình quân chung cả nước. Đại biểu Nguyễn Thị Huế cho rằng một số mục tiêu đặt quá cao và có thể thiếu khả thi nếu đối chiếu với số liệu thực tế và kịch bản tăng trưởng chung.
Đại biểu Nguyễn Thị Huế phân tích: Thu nhập bình quân đầu người cả nước năm 2025 ước đạt khoảng 5.000 USD (tương đương khoảng 132 triệu đồng); thu nhập bình quân khu vực nông thôn dự kiến khoảng 58 triệu đồng/người/năm; vùng dân tộc thiểu số, miền núi khoảng 45,9 triệu đồng/người/năm. Trong khi đó, định hướng đến năm 2030 thu nhập bình quân cả nước phấn đấu đạt 8.500 USD/người (tăng khoảng 1,7 lần so với 2025).
Từ các mốc này, đại biểu Nguyễn Thị Huế chỉ ra hai điểm bất hợp lý: Nếu thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 tăng 3 lần so với 2020 (ước khoảng 124 triệu đồng/người/năm) thì vẫn chỉ ở mức khoảng 55% so với bình quân chung cả nước. Khoảng cách nông thôn - bình quân cả nước, vì vậy, không thu hẹp đáng kể.
Nếu áp mục tiêu thu nhập đồng bào dân tộc thiểu số bằng 2/3 cả nước, con số đến 2030 có thể khoảng 150 triệu đồng/người/năm - tức cao hơn thu nhập bình quân nông thôn, tạo ra tương quan phát triển thiếu hợp lý giữa các khu vực. Trong bối cảnh nguồn lực hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn hạn chế và điều kiện phát triển còn rất khó khăn, mục tiêu này càng có nguy cơ không khả thi. Tương tự, với mục tiêu đến năm 2035 tiếp tục duy trì tỷ lệ 2/3 so với bình quân cả nước, khả năng thu nhập vùng dân tộc thiểu số có thể cao hơn khu vực nông thôn khoảng 58 triệu đồng/người, lặp lại “điểm nghẽn logic” như giai đoạn 2030.
Từ phân tích trên, đại biểu Nguyễn Thị Huế đề nghị Chính phủ rà soát kỹ lưỡng chỉ tiêu thu nhập, tính toán lại theo kịch bản tăng trưởng khả thi của từng vùng, bảo đảm mục tiêu vừa có tính phấn đấu, vừa sát điều kiện thực tế. Đại biểu Nguyễn Thị Huế nhấn mạnh, nếu chỉ tiêu đặt quá cao trong khi nguồn lực bố trí còn hạn hẹp, Chương trình dễ rơi vào tình trạng “mục tiêu đẹp nhưng không đạt”, ảnh hưởng niềm tin và động lực triển khai ở cơ sở.
Thu Hoài