Nhớ ngày trước ngoại vẫn thường hay nói: “Tết nhất, dù ít hay nhiều thì cũng phải có nồi bánh tét. Trước cúng ông bà tổ tiên, sau là có phần ngon chia cho con cháu khi tụ họp đông đủ.” Giờ không còn được ở quê với ngoại, với má, đôi lúc thèm cồn cào đòn bánh tét nhân mỡ thơm mùi lá chuối, mùi nếp quê nhà do chính tay ngoại gói. Đôi khi món ăn không chỉ để làm no bụng, mà nó phải được gói ghém từ chính những người ta yêu thương, từ gian bếp cũ kỹ cùng những thứ nguyên liệu được tạo ra ở nơi mà người ta vẫn thường gọi bằng hai chữ “quê hương”.
Năm nào cũng vậy, để chuẩn bị cho nồi bánh tét đêm giao thừa, ngoại và má phải chuẩn bị nguyên liệu từ hơn một tháng trước tết. Nếp gói bánh tét phải là loại nếp thật dẻo, còn đậu xanh được ngoại trồng trên bờ ruộng sau nhà, thịt ba rọi thì chia lại của bác Hai trong xóm làm thịt heo chia lúa. Ngoại lọ mọ phơi, lau từng miếng lá chuối, chẻ từng sợi lạt từ cọng chuối để gói bánh. Sau khi đã chuẩn bị xong phần lá chuối, đêm 29, ngoại và má lấy đậu xanh và nếp ra ngâm, rồi sáng 30 thì vo, gút sạch đổ vô rổ cho ráo nước. Má phân công chị em tôi đứa nào việc nấy, phụ má nạo dừa, đãi vỏ đậu, lột chuối để làm nhân. Thịt mỡ đem ướp hành muối vừa thấm rồi đem ra phơi nắng để miếng mỡ được trong khi nấu chín.
Để bánh lâu hư, má làm theo cách của ngoại là thắng nước cốt dừa rồi thêm chút muối, dùng xào nếp. Ngoại nói một đòn bánh đẹp và đủ độ khéo phải có hai đầu vuông vức và lớn đều nhau. Khâu cột lạt nứt đòn bánh cũng đòi hỏi sự khéo léo không kém vì nếu xiết lạt không đều tay sẽ làm đòn bánh thiếu cân đối, khi nấu lên dễ bị bung lá gói.
Tết nhất, dù ít hay nhiều thì cũng phải có bánh tét.
Nhớ nhất là cảm giác háo hức được ngồi canh nồi bánh tét cho ngoại. Sự háo hức không phải chỉ vì chờ đợi những đòn bánh nhỏ xíu do chính tay mình gói, mà vì những câu chuyện của ngoại bên nồi bánh tét đang đỏ lửa. Ngoại kể, ngày trước ông ngoại là bộ đội về đóng quân trong cánh rừng gần nhà ngoại. Có lần, ngoại đem bánh tét tiếp tế cho các chú bộ đội, gặp một anh bộ đội có nước da ngăm đen, mắt sáng, nụ cười hiền lành nhưng ít nói. Vậy mà lúc cầm bánh tét của ngoại trên tay lại mở lời khen và nói ước gì được ăn bánh tét ngoại gói cả đời. Và như duyên nợ sắp đặt, ông bà ngoại nên duyên vợ chồng sau đó nửa năm. Rồi những câu chuyện nhân bánh tét là mật thư, là thuốc men tiếp tế cho bộ đội được ngoại ngụy trang để qua mắt quân thù trót lọt dù sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc của ngoại làm tôi mê mẩn.
Sau ngày giải phóng, cũng vào đêm giao thừa, ông ngoại mất vì những vết thương trong chiến tranh tái phát. Hàng năm cứ đến dịp tết, ngoại và má, các dì đều quây quần gói bánh tét. Mỗi lần như vậy, mắt ngoại lại đỏ hoe, xa xăm nhìn ra bờ rào nơi có mấy nọc trầu vàng rợp mát mà ông ngoại thường kê bàn ngồi uống trà, đọc báo lúc còn sống.
Nhiệm vụ của chị em tôi là nứt bánh, gói xong thì chụm lửa, canh nồi bánh tét cho ngoại. Nhớ hồi đó, bên cái nồi lớn kê ngoài góc sân nhà, lửa đỏ rực, chị em tôi trải chiếc chiếu nằm cạnh nồi bánh tét, nói đủ mọi thứ trên đời. Đêm mùa xuân nơi xóm nghèo thật yên bình. Nhà nào cũng có người thức canh nồi bánh và chờ đợi thời khắc giao thừa chào đón năm mới thật mộc mạc, giản dị. Có lần nằm canh nồi bánh tét, mấy chị em tôi ngủ quên lúc nào không hay, khi thức giấc thì cũng là lúc thấy ngoại và má nhúng đòn bánh tét vào xô nước lạnh, rồi cắt từng khoanh bánh dâng lên bàn thờ cúng ông bà.
Chị em tôi lần lượt rồi cũng trưởng thành, lập gia đình. Dẫu mấy ngày tết chúng tôi không ăn nhiều bánh ngoại và má nấu, nhưng đó lại là món ăn tuyệt đỉnh sau tết để ngoại gói ghém làm quà cho mấy chị em tôi mang đi thành phố. Những năm ngoại chưa ngã bệnh, cứ 30 tết con cháu trong gia đình tề tụ cùng nhau gói bánh tét. Đây còn là dịp để thông qua đó chuyện trò, hỏi han, gắn kết tình thân. Chị em tôi đứa làm cô giáo, đứa công chức, công nhân trong và ngoài tỉnh. Bận rộn cả năm, nhưng những ngày cuối năm, dù ở đâu, lòng vẫn hướng về gia đình.
Rồi ngoại mất, má ngã bệnh. Ngót nghét cũng gần chục năm không còn được ngồi canh nồi bánh tét như thuở trước. Mỗi bận xuân về, ký ức ngày còn ở quê với ngoại, với má lại kéo nhau ùa cùng bao điều tiếc nuối. Tôi vẫn thầm cảm ơn ngoại vì nồi bánh tét đêm giao thừa của ngoại vẫn luôn đỏ lửa trong tuổi thơ tôi, để tụi con cảm nhận và hiểu được vị tết, điều mà những đứa trẻ thời 4.0 không dễ gì có được.
Năm nay tết không có ngày 30, 29 là đến mùng 1 tết. Tranh thủ sắp xếp để chuẩn bị đưa mấy nhỏ về quê ngoại. Đêm 28 tết, nhóm Zalo của họ hàng bên ngoại báo hiệu có tin nhắn. Chị Hai nhắn: “Lâu rồi chị em mình không đoàn tụ. Mai 29, mấy đứa tranh thủ về gói bánh tiếp chị. Đứa nào về sớm thì được lì xì, trễ bị phạt canh nồi bánh tét tới giao thừa nghen!”
Ngay lập tức, các thành viên trong nhóm vào thả tim kèm theo đó là những bức ảnh chụp mớ hành lý đã chuẩn bị sẵn sàng cho hành trình về quê ngoại ăn tết. Tin nhắn của con cậu, con dì từ Bình Dương, Vũng Tàu, TP. Rạch Giá thay phiên nhau gửi vô nhóm với thông báo: “Mai tụi em về, hành lý sẵn sàng rồi!”. Đọc tin nhắn xong, bé Mèo nhảy cẫng lên rồi quay sang nói với mẹ: “Mai về cho con với em học gói bánh tét nghen mẹ!”. Tôi gật đầu, lòng dâng lên cảm xúc khó tả.
AN LÂM