Trước cồng Đền Hùng
Ngược dòng thời gian, cách chúng ta ngày nay gần ba ngàn năm, vùng đất thiêng Nghĩa Lĩnh (xã Hy Cương tỉnh Phú Thọ) từng là kinh đô của nhà nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Bởi thế, nơi đây được coi là mạch nguồn phát tích của dân tộc; được gọi là đất Tổ và chịu trách nhiệm thờ phụng chính mười tám vị vua Hùng. Cho nên, miền đất này trong suốt quá trình hình thành và phát triển đã trở thành nơi hội tụ tinh hoa văn hóa - tâm linh và cũng được coi là biểu tượng cho cội nguồn và tinh thần đoàn kết của đất nước. Kết quả này có lẽ là niềm vinh dự, tự hào riêng của người Phú Thọ và cũng là trách nhiệm giữ gìn, vun đắp của mọi người Việt Nam. Bây giờ về thăm quần thể di tích quốc gia đặc biệt Đền Hùng và viếng lăng mộ Hùng Vương trên núi thiêng Nghĩa Lĩnh, chúng ta hẳn sẽ không khỏi choáng ngợp trước những đổi thay theo hướng ngày càng bề thế, đoàng hoàng, đẹp đẽ hơn xưa của cái nơi từng được thừa nhận là chốn hương hỏa thiêng liêng của cả nước, của muôn dân đất Việt.
Quần thể di tích lịch sử Hùng Vương bây giờ thật đẹp. Nếu thời xưa, trên độ cao hơn 170 mét so mới mực nước biển, núi Nghĩa Lĩnh chỉ có rừng cây xanh mát như cổ tích cùng các công trình: Cổng Đền, Đền Hạ, chùa Thiền Quang, Đền Trung, Đền Thượng, Đền Giếng và một lăng mộ thì sau này, nhất là thời gian gần đây, khu di tích này đã được bổ sung thêm nhiều công trình khác như; Cổng vào trung tâm lễ hội khu di tích lịch sử Đền Hùng; Nhà đón tiếp khách và trình diễn nghệ thuật; các bức tranh gốm và phù điêu đồng; Bảo tàng Hùng Vương; Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ và Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân … cùng với hệ thống đường giao thông đi lại thuận tiện, rộng rãi, đẹp đẽ xứng tầm là nơi để con cháu ở trên mọi miền đất nước, khắp năm châu bốn bể, hàng năm đi về bái Tổ.
Đền Hạ
Đi từ ngoài vào trong, từ dưới chân núi lên trên đỉnh núi, từ trên núi cao vòng xuống dưới chân núi, chúng ta sẽ được trải nghiệm trên con đường di sản đặc biệt của nơi đế đô. Trước tiên, qua bãi để xe, bước vào khu di tích lịch sử Đền Hùng, chúng ta sẽ đi qua tòa cổng đồ sộ, uy nghi để khu di tích lịch sử Đền Hùng. Công trình này được làm vào năm 2014, chia làm ba tòa, mỗi tòa cách nhau 5,3 mét, mặt ngoài ốp đá tự nhiên. Trong đó, tòa chính ở giữa dài 17,4 mét, rộng 9,0 mét, cao 22,0 mét, vòm cửa rộng 7,5 mét, cao 7,5 mét, thiết kế theo kiểu lợp ngói mũi hài với hai tầng mái dốc, đầu đao. Hai tòa phụ, ở hai bên tòa chính, mỗi tòa dài 10 mét, rộng 6,3 mét, cao 13,6 mét, vòm cửa rộng 5,0 mét, cao 6,0 mét, cũng thiết kế lợp ngói mũi hài với một mái dốc, đầu đao. Ngoài các tòa nhà, công trình cổng vào này còn có sáu cột trụ đá. Hai cột trụ nằm ở phía bên ngoài hai tòa nhà phụ, cao khoảng 13 mét. Hai cột ở phía trước và hai cột ở phía sau tòa cổng chính, ở giữa tòa chính và tòa phụ, cao gần bằng tầng mái cao nhất của tòa chính. Thiết kế các cột đá giống nhau: phía trên cùng là bốn con chim chụm đuôi lại và xòe ra bốn góc hướng lên bầu trời, bên dưới con chim có trang trí đèn lồng hình vuông, dưới đèn lồng là phần thân trụ và đế trụ.
Trên đường đi lên núi Nghĩa Lĩnh, qua nhà đón khánh và trình diễn nghệ thuật, ta sẽ nhìn thấy bức tranh “Ngày hội non sông trên đất Tổ” sặc sỡ sắc màu, dài 72 mét, cao 9,9 mét, được được ghép từ 1400 mảnh gốm của các nghệ nhân làng Bát Tràng. Bức tranh “Ngày hội non sông trên đất Tổ” đã tái hiện lại truyền thuyết bọc trăm trứng với trung tâm là vầng nhật nguyệt (tượng trưng là trời) nằm bên trong vòng bán nguyệt (tượng trưng là đất). Trên vòng bán nguyệt, phía trái là hình phượng, phía bên phải là hình rồng. Bên dưới hình mặt trời có sáu cô gái xếp hàng đôi đang dâng lễ vật bánh chưng, bánh giầy trong ngày giỗ Tổ. Ngoài những hình ảnh, biểu tượng ở khu trung tâm; ngắm nhìn bức tranh từ đầu đến cuối; bắt đầu là hình ảnh mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân cùng đàn con hăng say lao động (bên trái) và kết thúc là hình ảnh tỉnh Phú Thọ giàu đẹp và hiện đại (bên phải); người xem còn thấy ở giữa là những hình ảnh thể hiện cảnh rước kiệu, rước lúa thần, rước chúa gái, các lễ hội truyền thống cùng trò chơi bơi thuyền, đánh trống, đánh đu, đâm đuống, kéo co, hát xoan…. Chiêm ngưỡng bức tranh gốm ấy người xem sẽ nhận ra những câu chuyện trong truyền thuyết và lễ hội Hùng Vương cùng với quá trình hình thành phát triển của miền đất Tổ. Có thể nói, với những mảnh gốm ghép, du khách về lễ Tổ sẽ vô cùng thích thú trong cái nhìn ban đầu, khi tự mình khám phá thông điệp của bức tranh. Đó là sự phát triển của đất Tổ và cũng là của đất nước trong suốt trường kỳ lịch sử, từ thời huyền sử đến ngày hôm nay; trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ đồng bằng đến miền núi cao và nơi biển khơi. Bức tranh như thế đã thể hiện được cái nhìn khách quan, toàn diện và chứa đựng biết bao khát vọng, mơ ước của người nghệ sĩ gửi được vào trong tranh. Bởi thế, bức tranh “Ngày hội non sông trên đất Tổ” trước cổng Đền Hùng không chỉ đơn giản là để giải trí mà ẩn sau những hình ảnh, những biểu tượng là những ý nghĩa tâm linh và ý nghĩa giáo dục, nhất là với thế hệ trẻ.
Đền Trung
Đi qua bức tranh gốm ghép, chúng ta sẽ đến chân núi Nghĩa Lĩnh, để theo những bậc thang đá dẫn lên khu di tích. Ngay dưới chân núi là công trình Cổng Đền, cách mặt đất bằng phẳng dưới chân núi 30 bậc đá. Sách sử còn lưu, cổng đền hiện nay được làm từ năm 1917, vẫn giữ nguyên được kiến trúc vòm cuốn, cao 8,5 mét, rộng 4,5 mét với hai tầng mái tám mái, lợp giả ngói ống. Cổng đền được sơn màu hồng. Tầng dưới có một cửa vòm lớn làm lối đi. Tầng mái trên có ba cửa vòm nhỏ để trang trí. Đỉnh nóc tầng mái trên đắp lưỡng long chầu nguyệt. Cổng có hai cột trụ hình vuông. Hai cột trụ được làm ở ngoài cùng hai bên cổng, trên có đắp hai con nghê ngồi chầu; dưới hai con nghê trang trí đèn lồng hình vuông. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ; một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến; đều mặc áo giáp và ngực trang trí hổ phù. Phía mặt sau của cổng có đắp hai con hổ có ý nghĩa canh giữ, bảo vệ. Ở trên vòm cuốn tầng mái bên dưới có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành”. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương (con nhà thơ Tản Đà) bốn chữ này được “rút ra từ Kinh Thi: “Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”, có nghĩa là: “Núi cao ta ngẩng trông, đường rộng lớn ta đi tới”. “Núi cao ta ngẩng trông” là hướng về cội nguồn như núi cao sừng sững bền vững muôn đời. Còn “đường lớn ta đi tới” là chỉ về tương lai rộng lớn của cả dân tộc”. Và ở hai bên cổng có hai đôi câu đối. Đôi câu đối ở giữa có ghi: “Thác thủy khai cơ, tứ cố sơn hà quy bản tịch/ Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn”; nghĩa là: Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông về một mối/ Lên cao nhìn khắp, chập chùng đồi núi cháu con đông. Đôi câu đối ở bên cạnh ghi rằng: “Đăng giả hệ hà tư, vạn cổ giang sơn đế tạo thủy/ Giai tai do vượng khí, thiên niên thành quách úy thông gian”; nghĩa là: Lên đây nhớ về cội, muôn thuở giang sơn chốn này tạo dựng/ Đẹp thay nhờ vượng khí, nghìn năm thành quách cây cỏ tốt tươi. Như thế đấy, với bức đại tự và hai đôi câu đối ở ngay cổng vào, người xưa đã thể hiện và gửi gắm biết bao khát vọng về đất nước hùng mạnh, thống nhất; con đàn cháu đống và cũng không quên nhắc nhở mọi người phải biết ơn, ghi nhớ về cội nguồn dân tộc.
Trước đây, từ chân núi lên đến Đền Thượng du khách phải đi qua 539 bậc đá, nghe nói những viên đá này được lấy từ Hải Lựu về làm (giai đoạn từ năm 1917 đến năm 1922). Sau này, khi trùng tu lại, người ta thay đá Hải lựu bằng đá mang ra từ Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Những con đường đá bậc này đi xuyên trên núi, dưới tán rừng cổ thụ xanh mát, kết nối các ngôi đền trên núi. Theo những con đường đá ấy, chúng tôi vừa đi vừa đếm các bậc đá trên suốt hành trình vãng cảnh, thăm viếng ở các ngôi đền. Tổng cộng có 1112 bậc đá; trong đó từ chân núi lên đến Đền Thượng có 495 bậc đá; từ Đền Thượng đi xuống Đền Giếng có 617 bậc đá.
Đền Thượng
Đền Hạ là ngôi đền ở gần chân núi, cách cổng đền 211 bậc đá. Tương truyền đây chính là nơi mẹ Âu Cơ đã sinh bọc trăm trứng và nở ra 100 người con trai mang dòng giống Tiên Rồng. Ở phía sau Đền Hạ, hiện vẫn còn lưu giữ được giếng Mắt Rồng, nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng, tắm cho các con. Ngôi đền này từng được làm lại vào thời Hậu Lê, ở chính trên nền đất của đền xưa, do dân làng Vi Cương làm. Kiến trúc của đền được làm theo hình chữ “nhị”, gồm hai tòa Tiền bái và Hậu cung, cách nhau 1,5 mét. Đền hiện nay được trùng tu nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu, không có nhiều họa tiết trang trí cầu kỳ. Đền Hạ thờ thần núi, các vị vua Hùng cùng hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Bên cạnh Đền Hạ là chùa Thiên Quang. Theo truyền thuyết, khi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, có một luồng ánh sáng chiếu thẳng từ trên trời xuống chỗ chùa hiện nay. Bởi thế khi làm chùa người xưa đã đặt tên là Thiên Quang, với ý nghĩa là ánh sáng từ trên trời chiếu rọi xuống. Chùa Thiên Quang được xây dựng vào khoảng thời Lý - Trần và thờ Phật theo phái Đại thừa (thờ phật và cả bồ tát cùng các thánh thần theo tín ngưỡng bản địa). Hiện trong chùa còn giữ được quả chuông nặng gần một tấn và 32 pho tượng Phật bằng gỗ, sơn son thiếp vàng rất đẹp. Đặc biệt, trước cửa chùa có cây vạn tuế cổ thụ (gần 800 tuổi). Bên cây vạn tuế này, ngày 19 tháng 9 năm 1954, về thăm Đền Hùng, Bác Hồ đã ngồi bàn việc về tiếp quản thủ đô với đồng chí Thanh Quảng – Phó Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương và đồng chí Song Hào - Chính ủy Đài đoàn quân Tiên Phong.
Từ Đền Hạ, qua chùa Thiên Quang, đi tiếp 173 bậc đá, chúng ta sẽ lên đến Đền Trung. Đền nằm ở lưng chừng núi, có tên chữ là “Hùng Vương Tổ Miếu”. Tương truyền, các vua Hùng thường bàn việc với các Lạc Hầu, Lạc Tướng tại đây. Cũng chính ở đền này, đời Hùng Vương thứ 6, sau khi dẹp giặc Ân xong, vua Hùng đã tổ chức thi tài, chọn người kế vị và Hoàng tử Lang Liêu đã thắng cuộc sau khi dâng bánh chưng, bánh giầy cho vua cha trong dịp lễ đầu xuân, rồi được truyền ngôi. Đền Trung xưa được làm vào thời Trần, xây theo hình chữ “nhất”; có 3 gian nhìn về hướng Nam; dài 7, 2 mét, rộng 3,7 mét, không có cột kèo. Đền này cũng bị giặc Minh tàn phá, sau được phục hồi qua các thời đại. Lần trùng tu gần nhất là năm 2009, theo đó đền được làm theo hình chữ “nhị”, gồm hai tòa: Tiền bái và Hậu cung. Trong Hậu cung có đặt long ngai, bài vị thờ thần núi: Đột Ngột Cao Sơn, Ất Sơn, Viễn Sơn và các đời Vua Hùng cùng hai công chúa con vua Hùng Vương thứ mười tám là Ngọc Hoa, Tiên Dung.
Đi qua Đền Trung, ngược lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh với 81 bậc đá, chúng ta sẽ đến Đền Thượng. Đền có tên chữ là “Kính Thiên Lĩnh Điện” (Ðiện thờ Trời trên núi Nghĩa Lĩnh) hay còn gọi là “Cửu Trùng Tiên Điện” (Điện giữa chín tầng mây). Theo truyền thuyết, đây là nơi Vua Hùng thường tiến hành các nghi lễ tế trời đất để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Tương truyền, tại đây, sau khi được Hùng Vương thứ mười tám nhường ngôi, Thục Phán đã dựng cột đá ở Đền Thượng và thề rằng quyết trông nom, giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng và hương khói thờ phụng các đời vua Tổ. Cột đá thề này hiện vẫn được lưu giữ ở phía bên trái của đền. Nhìn tổng thể, kiến trúc ở Đền Thượng được làm theo hình chữ “vương”, gồm có: Nghi môn, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Nhìn chung trang trí ở Đền Thượng cũng khá đơn giản, không có nhiều họa tiết chạm khắc cầu kỳ. Bên ngoài là Nghi môn, mang phong cách thời Nguyễn, có bốn trụ biểu lớn tạo thành ba cổng mái vòm. Phía trên các cột trụ đắp đèn lồng, bốn mặt đắp hình tứ linh, đỉnh cột đắp bốn con nghê chầu. Phía trên nóc cổng giữa trang trí “lưỡng long chầu nhật”, hình hai con rồng đang uốn lượn. Hai bên có tượng võ sỹ, phía trên là hình phượng cặp thư. Bên trong là Đại bái, Tiền tế và Hậu cung, được nối liền với nhau. Cấu trúc mặt bằng các nhà này đều có ba gian với hai hàng cột. Trong Hậu cung có bốn ban thờ: Ba ban thờ ở chính diện, nhìn ra cửa, hướng Nam, xếp theo hình chữ “nhất”; các ban này có long ngai và bài vị, được đặt trong khám thờ, trạm trổ và sơn son thếp vàng rất đẹp. Một ban thờ nhìn về phía Đông Nam, ngai nhỏ hơn, không có bài vị, bố trí thấp hơn ban nhìn về hướng Nam. Theo giải thích của Bùi Văn Nguyên (“Cội nguồn trăm họ”, Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội, 2002) thì ngai giữa thờ Hùng Quốc Vương - vị vua khai quốc hồng đồ: Đột ngột Cao Sơn; ngai bên trái thờ Hùng Việp (Hoặc Diệp) Vương húy là Bảo Lang: Viễn Sơn Thánh Vương - con trưởng Hùng Quốc Vương; ngai bên phải thờ Hùng Hy Vương, Húy là Viên Lang: Ất Sơn Thánh Vương - con trưởng Hùng Hy Vương, cháu Hùng Quốc Vương. Đây là ba vị đứng đầu các Vua Hùng. Chính vì vậy mà Đền Thượng có bức đại tự “Triệu Cơ Vương Tích” dấu tích nền móng của vua; mặt trước đền có bốn chữ “Nam Việt Triệu Tổ”, mở đầu nước Nam, Tổ muôn đời của nước Việt Nam. Ba ngôi thờ ấy còn thờ thần của ba ngọn núi thiêng, trong dân gian gọi là: “Tam sơn cấm địa” - Núi Hùng (Đột Ngột Cao Sơn); Núi Vặn (Viễn Sơn) Núi Trọc (Ất Sơn). Qua đât ta có thể nhận ra những dấu vết của tục thờ thần núi, đây là văn hóa thờ thiên thần. Lớp văn hóa này rất cổ, nó xuất hiện từ thời kỳ Thị tộc, Thị tộc tảo kỳ. Vì vậy bên trong đền còn có bức đại tự “Thiên Địa Chi Linh” (đất trời linh thiêng tại chốn này).
Lăng Hùng Vương
Phía sau Đền Thượng, trên đường đi xuống Đền Giếng là Lăng mộ vua Hùng thứ sáu. Lăng mộ này nằm ở phía Đông của đền Thượng, có thế phong thủy rất đẹp: đầu đội sơn chân đạp thủy, mặt nhìn theo hướng Đông Nam. Lăng mộ có hình vuông, làm theo kiểu cột liền tường, hai tầng mái, đao cong ở tám góc. Các góc ở tầng mái dưới có trang trí rồng trong tư thế bò; ở tầng mái trên có đắp rồng uốn ngược. Đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái trang trí bằng đắp giả ngói ống; diềm ba phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt: Tây, Đông, Nam có cửa uốn vòm, hai bên cửa đều đắp kỳ lân. Trong lăng có mộ vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật. Cũng tại mộ Tổ này, khi về dâng hương trên núi Nghĩa Lĩnh, vua Lê Hiển Tông đã để lại thơ rằng: “Mộ cũ ở lưng đồi/ Đền thờ trên sườn núi/ Muôn dân tới phụng thờ/ Khói hương còn mãi mãi”.
Từ đền Thượng đi xuống đền Giếng phải bước qua 617 bậc đá. Tuy nhiên, do đi xuống nên người đi cảm thấy đỡ mệt hơn hành trình ngược lên đỉnh núi. Đền Giếng là nơi thờ hai công chúa: Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái vua Hùng thứ mười tám. Đền có tên chữ là tên chữ là “Ngọc Tỉnh” (Giếng Ngọc), vốn được xây dựng vào thời nhà Trần, nhìn hướng Đông Nam. Đền có kiến trúc kiểu chữ Công, gồm ba gian Tiền bái và ba gian Hậu cung; có phương đình nối Tiền bái với Hậu cung. Ngoài ra, kiến trúc Đền Giếng còn có cổng vào và ao hoa trước mặt. Cổng đền Giếng được xây vào thời Nguyễn, theo kiểu kiến trúc hai tầng tám mái; hai bên có hai cột trụ, trên đắp nghê chầu; tầng dưới có một cửa uốn vòm; trên cổng có bốn chữ “Trung sơn tiểu thất” (ngôi nhà nhỏ trong núi). Hiện trong chùa vẫn lưu giữ được “Ngọc Tỉnh” (giếng sâu hai mét, nước khoảng sáu mươi phân, nước trong mát quanh năm, có thể soi gương được). Tương truyền, giếng cổ này là nơi hai công chúa của vua Hùng thường xuyên tới soi gương, vấn tóc mỗi khi theo cha đi kinh lý qua đây. Theo truyền thuyết, Tiên Dung và Ngọc Hoa là những người đã dạy dân trong vùng trồng lúa nước, trị thủy nên nhân dân tưởng nhớ tới công đức của hai nàng đã lập đền để muôn đời thờ phụng. Đặc biệt, ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Giếng này, Bác Hồ đã có buổi nói chuyện với Đại đoàn quân Tiên Phong trước khi về tiếp quản Thủ đô. Trong buổi nói chuyện này Bác đã nói một câu bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Từ Đền Giếng đi ra ngoài bãi xe, xuống đến chân núi, khu vực ngã năm, chúng ta sẽ thấy một bức phù điêu lớn bằng đồng đỏ rất đẹp. Bức phù điêu mới được hoàn thành năm 2024; có hình vòng cung với chiều dài 28,16 mét; cao 10,99 mét; tái hiện buổi nói chuyện của Bác Hồ với Đại đoàn quân Tiên Phong năm 1954 tại Đền Giếng. Ngoài ra, trong khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt này còn có Đền Tổ Mẫu Âu Cơ và Đền thờ Lạc Long Quân. Đền Tổ mẫu Âu Cơ được xây dựng trên Ốc Sơn (núi Vặn) vào năm 2001 và hoàn thành vào năm 2024. Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh, mặt quay ra hướng Đông Nam, và mang đậm nét truyền thống của đền Việt. Đền có các hạng mục: Đền chính, Tả vu, Hữu vu, Nhà bia, Trụ biểu, Tam quan, nhà tiếp khách và hệ thống sân, vườn. Các hạng mục này đều làm theo lối cổ với cột, xà, hoành, rui bằng gỗ lim; mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường xây bằng gạch. Trang trí trong đền phần lớn sử dụng các họa tiết được mô phỏng theo các hoa văn trên trống đồng Đông Sơn. Trong đền ngoài thờ tượng Mẫu Âu Cơ còn thờ Lạc hầu và Lạc tướng. Muốn lên đến Đền chính chúng ta phải đi qua 553 bậc đá. Sau khi làm xong Đền Mẫu Âu Cơ, đến năm 2007, tại đồi Sim, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng một cây số, nhân dân Phú Thọ lại dựng tiếp Đền thờ Lạc Long Quân. Nhìn từ xa, người ta thấy đền Quốc Tổ tọa trên một địa thế rất đẹp: “sơn chầu thủy tụ”. Đồi Sim có hình như một con rùa lớn, hai bên có thanh long, bạch hổ và phía trước có hồ Hóc Trai, sông Hồng. Đền có các hạng mục: Nghi môn, Trụ biểu, Nhà bia, Đền chính (Tiền tế, Đại bái, Hậu cung), Tả vu, Hữu vu. Bên trong đền có đặt tượng Lạc Long Quân đúc bằng đồng cùng lư hương được tạc bằng đá khối, họa tiết trang trí rất đẹp. Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ và Quốc Tổ Lạc Long Quân ở khu di tích Đền Hùng là những đền phối thờ. Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ chính ở Hiền Lương (Phú Thọ), đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân chính ở Bình Đà (Hà Nội).
Bên Đền Giếng
Trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, dâng hương “Nam Việt Triệu Tổ”, ngắm nhìn bốn bề bát ngát; núi đồi lô xô như bát úp với nhưng nương chè, rừng cọ xanh biếc; sông Lô, sông Thao như dải lụa đào, lụa biếc uốn lượn hai bên và cùng nhau tụ về ở ngã ba Hạc; bất chợt tôi lại nhớ đến truyền thuyết Hùng Vương kể về hành trình đi tìm đất đóng đô của người xưa: “Vua đi mãi nơi này nơi khác mà chưa chọn được nơi nào có thể định đô. Vua lại đi, lại đi.... Đi tới một vùng trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về. Đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như rồng chầu hổ phục, như tướng quân bắn nỏ, như ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả đồi xanh tốt, có ngọn núi đột ngột nổi lên, như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề rộng rãi, bồi đắp phù xa, bốn mặt sum suê cây xanh, hoa tươi cỏ ngọt, vừa trùng điệp, vừa quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng phán rằng đây thực là đất họp muôn dân, thế hiểm để giữ, có thể để mở, thế đất vững bền, có thể dựng nước được muôn đời”. Nhớ lại như thế, trong lòng không khỏi thán phục tầm nhìn và trí tuệ của Hùng Vương thứ nhất. Không biết, gần ba ngàn năm trước, địa lý vùng đất Tổ như thế nào nhưng bây giờ, đứng trên núi Nghĩa Lĩnh, nhìn thấy đất Phong Châu vua Hùng chọn làm kinh đô quả thực đắc địa. Đền Hùng nằm trên đỉnh Nghĩa Lĩnh giống như ngự trên đầu rồng, bay từ hướng Bắc xuống; thân rồng là một trăm quả đồi uốn lượn nhấp nhô tựa như lưng voi với cái sống lưng là núi Thắm; đuôi rồng tựa như đang vẫy vùng mà làm thành chín mươi chín cái ngách ở đầm Ao Châu.
Có lần tôi nghe nói, núi Thắm và một trăm quả đồi hợp lại tạo thành một thế trận sơn địa hùng vĩ. Thế trận ấy lại kết hợp cùng sông Lô xanh ngắt ở bên trái, sông Thao đỏ lặng phù sa ở bên phải. Hai dòng sông cùng nhau hợp lưu tại ngã ba Hạc Trì làm thành sông Hồng, lấn biển dần dần mở ra một miền châu thổ Bắc Bộ màu mỡ, tạo nên một nền văn minh lúa nước rực rỡ của nhân loại. Trời đất như thế cũng đã tạo ra cho núi Nghĩa Lĩnh một địa thế phong thủy có một không hai: “đầu gối sơn, chân đạp thủy”. Nếu ngã ba Hạc là thủy khẩu thì núi Nghĩa Lĩnh chính là huyệt đạo của vùng đất Tổ. Theo đó đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh tựa như một bệ rồng mà dãy núi Tam Đảo từ Tuyên Quang chạy xuống Sóc Sơn, ở bên trái là “thanh long” và dãy núi Ba Vì từ Hòa Bình chạy về, ở bên phải là “bạch hổ”. Nếu bên phía “thanh long” là đất Phật (trường phái Trúc Lâm ở Tây thiên) và gắn với huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân thì bên phía “bạch hổ” là đất Thánh (Tản Viên Sơn Thánh ngự ở núi Ba Vì) gắn liền với huyền thoại trị thủy trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Cũng thế đất ấy, truyền thuyết cũng kể rằng, khi vua Hùng định đô ở Nghĩa Lĩnh, thần linh đã ban tặng cho người 100 con voi (100 quả đồi). Khi vua gióng trống đồng, chín mươi chín con cùng nhau quay đầu về Nghĩa Lĩnh, duy nhất chỉ có một con quay đầu về phương Bắc. Vua cho rằng con voi này bất nghĩa, có ý đồ phản chắc nên đã sai con gái cả (nàng Bầu) chém cụt đầu. Người ta bảo đấy là thái độ không khoan nhượng với kẻ phản bội đất nước. Nhưng rồi cũng có người kể, con voi ấy chết oan. Thực ra nó không phản trắc. Con voi nhìn về phương Bắc là có ý cảnh giới kẻ thù, trông chừng cho nhà vua. Bởi thế, truyền thuyết đất Tổ cũng có truyện chiêu tuyết cho con voi xấu số ấy. Truyện kể, sau khi chém chết con voi, vua Hùng đã khấn thần rừng, nếu con voi là trung nghĩa thì hãy cho máu đỏ trào ra. Vua khấn dứt lời, từ vết chém ở cổ voi bỗng tuôn ra một dòng máu đỏ. Thấy vậy, vua đã cầu xin cha Trời mẹ Đất hàng năm vào ngày này hãy đổ cơn mưa thần xuống cho con voi kia dịu bớt nỗi đau. Cái ngày vua khấn trời đất ấy chính là đêm mùng Mười tháng Ba. Sau này người ta bảo rằng, lời khấn ấy ứng nghiệm nên cứ trước khi mở hội đền Hùng, bao giờ trời cũng làm mưa. Mưa ấy gọi là mưa rửa đền.
Về thăm đất Tổ, lên núi Nghĩa Lĩnh dâng hương các vua Hùng, bước chân nhẩn nha trên những bậc đá, dưới tán rừng cổ thụ xanh mát, lắng nghe âm vang của những huyền thoại từ thời dựng nước vọng về, lòng ta không khỏi hứng khởi, bồi hồi, xúc động trước cảnh non xanh nước biếc trập trùng mà tổ tiên đã dày công tìm kiếm, gây dựng ở chốn này. Bỗng dưng thấy đất Tổ tuy xa mà gần. Xa, cứ tưởng tận chân trời góc bể. Nhưng hóa ra không, chốn Tổ quê nhà cứ đâu đó trong ta. Người ta có cảm giác ấm áp như vậy bởi nơi ấy là cội nguồn dân tộc. Nơi thờ “Cha Rồng Mẹ Tiên” cùng các vị vua Tổ. Cho nên Nghĩa Lĩnh núi ấy cũng chính là nhà ta đó. Bởi thế từ ngàn đời nay dân tộc này vẫn thường nhắc nhở nhau rằng: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba”.
Phan Anh - Thu Hiền