XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN; HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC; ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, ĐƯA QUẢNG TRỊ PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
(Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030)
(Tiếp theo)
3. Phát triển văn hóa, xã hội, con người
3.1. Giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đạt kết quả quan trọng. Hệ thống trường, lớp, quy mô giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao trình độ đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động. Chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học được đẩy mạnh. Chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn có bước tiến vững chắc; kết quả phổ cập giáo dục được duy trì; tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục tăng, đến hết năm 2025 đạt 70,8%. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã quan tâm nâng cao chất lượng; tăng cường liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo. Nhiều lao động đã tiếp cận với khoa học, công nghệ, kỹ thuật, tác phong làm việc công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động.
3.2. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe toàn diện cho Nhân dân được chú trọng
Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao. Hệ thống cơ sở y tế từng bước được đầu tư trang thiết bị, ứng dụng kỹ thuật mới; cơ bản không để xảy ra tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư và nhân lực y tế. Đưa vào sử dụng một số bệnh viện và cơ sở y tế tư nhân chất lượng cao, góp phần tăng cường năng lực khám, chữa bệnh và giảm tải một phần cho các cơ sở y tế công lập. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, y đức đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế được nâng cao; tăng cường các hoạt động hợp tác chuyên gia. Hoạt động phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, nhất là dịch Covid-19 được triển khai tích cực, hiệu quả. Diện bao phủ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp tăng. Đến hết năm 2025, có 38,3 giường bệnh và 11,4 bác sĩ trên 1 vạn dân; tỉ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,1%.
3.3. Hoạt động văn hóa, thể thao chuyển biến mạnh mẽ cả về quy mô và chiều sâu, tạo dấu ấn quan trọng trong đời sống xã hội
Môi trường văn hóa được quan tâm xây dựng và phát triển toàn diện. Chú trọng đầu tư và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, di sản văn hóa đạt nhiều kết quả quan trọng; nhiều di sản văn hóa từng bước đưa vào khai thác gắn với phát triển du lịch. Các lễ hội, các sự kiện chính trị, văn hóa mang tầm quốc gia được tổ chức thành công, tạo ấn tượng tốt đẹp và sức lan tỏa mạnh mẽ. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển ngày càng rộng khắp, góp phần nâng cao sức khỏe, thể chất và cải thiện tầm vóc con người. Thể thao thành tích cao ngày càng khẳng định được vị thế trên đấu trường quốc gia và quốc tế. Đời sống văn hóa cơ sở, đặc biệt là của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có nhiều khởi sắc; mức hưởng thụ các giá trị văn hóa của Nhân dân không ngừng được cải thiện.
3.4. Công tác chuyển đổi số được triển khai quyết liệt, các lĩnh vực thông tin và truyền thông chuyển biến mạnh mẽ
Hạ tầng số tiếp tục được đầu tư, mở rộng, bảo đảm tính đồng bộ, hiện đại. Hệ thống chính quyền điện tử, đô thị thông minh được đẩy mạnh với việc triển khai Trung tâm điều hành thông minh và các nền tảng dữ liệu lớn phục vụ công tác quản lý, điều hành. Cổng dịch vụ công trực tuyến được đầu tư, cải tiến, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao mức độ hài lòng của người dân. Hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, bưu chính có sự phát triển vượt bậc; sóng di động 3G, 4G, mạng băng rộng cáp quang được phủ rộng khắp trên địa bàn tỉnh; mạng 5G bước đầu được triển khai. Trí tuệ nhân tạo (AI) trong triển khai thử nghiệm trợ lý ảo hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức bước đầu được áp dụng.
Công tác quản lý các cơ quan báo chí, truyền thông được quan tâm. Công tác giám sát và kiểm soát thông tin trên các nền tảng mạng xã hội được đẩy mạnh, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để xử lý kịp thời các thông tin sai lệch, xuyên tạc, góp phần giữ vững ổn định chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh.
3.5. Công tác giải quyết việc làm, an sinh xã hội được chú trọng
Công tác giải quyết việc làm có những chuyển biến rõ rệt; thông tin thị trường lao động được định hướng, dữ liệu cung - cầu lao động được cập nhật kịp thời. Hằng năm có trên 34.000 lượt lao động được tạo việc làm, trong đó có trên 8.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền lợi chính đáng của người lao động cơ bản được bảo đảm. Các chính sách đối với người có công với cách mạng, chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng yếu thế, người cao tuổi, trẻ em được thực hiện đầy đủ, kịp thời; công tác bình đẳng giới, phòng, chống tệ nạn xã hội được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Chính sách đối với cán bộ thôn, bản, tổ dân phố được quan tâm thực hiện.
Các chương trình, dự án, các nguồn lực huy động cho công tác giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1%/năm. Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, hỗ trợ nhà ở được chỉ đạo, triển khai quyết liệt; hoàn thành 100% kế hoạch năm 2025.
4. Lĩnh vực quốc phòng, an ninh; hoạt động đối ngoại
4.1. Quốc phòng, an ninh được tăng cường
Tiềm lực quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, vững mạnh, bảo đảm thế trận phòng thủ vững chắc, đặc biệt là tại hai tuyến biên giới và biển, đảo. Công tác diễn tập khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự, phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, an toàn tuyệt đối. Xây dựng lực lượng quân sự, công an, biên phòng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tổ chức lại Bộ đội biên phòng, thành lập các Ban chỉ huy phòng thủ khu vực. Lực lượng công an tiên phong sắp xếp tổ chức bộ máy hướng về cấp cơ sở.
Chủ động nắm chắc tình hình, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; xử lý hiệu quả các vấn đề liên quan an ninh, trật tự, giữ vững môi trường ổn định để thu hút đầu tư, triển khai các dự án. Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, sự kiện chính trị, xã hội quan trọng. Đấu tranh phòng, chống, triệt phá hiệu quả các loại tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, dữ liệu dân cư trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phục vụ chuyển đổi số quốc gia.
Tăng cường kiểm soát an ninh biên giới, sẵn sàng huy động lực lượng, phương tiện bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ứng phó kịp thời với các thách thức an ninh phi truyền thống, lực lượng vũ trang phát huy vai trò tuyến đầu trong phòng, chống dịch, cứu hộ, cứu nạn.
4.2. Hoạt động đối ngoại tiếp tục mở rộng, có hiệu quả
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai mạnh mẽ, chủ động trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, biên giới. Quan hệ hữu nghị với các địa phương của nước bạn Lào được củng cố và tăng cường, ngày càng hiệu quả; hợp tác với các nước Cuba, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan,... từng bước đi vào chiều sâu. Đối ngoại Đảng, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, đối ngoại nhân dân đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao vị thế của tỉnh, huy động nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, thương mại và du lịch.
5. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Đạt được những thành tựu quan trọng trong nhiệm kỳ qua chính là nhờ sự đoàn kết, thống nhất cao; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành quyết liệt, đúng đắn, năng động, sáng tạo của cấp ủy, chính quyền; phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, to lớn của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ, ngành Trung ương.
II. HẠN CHẾ
1. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên có mặt hiệu quả chưa cao; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở một số nơi chưa thực sự đi vào chiều sâu.
Công tác đánh giá cán bộ có nơi còn hình thức; chưa có chính sách của tỉnh để thu hút nhân tài và phát triển tài năng của cán bộ ở một số lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu đội ngũ cán bộ còn một số bất cập, vẫn còn tình trạng hẫng hụt cán bộ. Tỉ lệ kết nạp đảng viên chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
Chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, ủy ban kiểm tra chưa toàn diện, chưa sát với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các cơ quan liên quan có lúc, có việc chưa thực sự hiệu quả.
Việc tiếp nhận, giải quyết kiến nghị của người dân và thực hiện kết luận kiểm tra, thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực pháp luật của một số cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị còn chậm, chưa thỏa đáng, gây nên bức xúc.
Công tác dân vận của một số cấp ủy có mặt thiếu đổi mới. Công tác dân vận chính quyền ở một số địa bàn, lĩnh vực liên quan đến giải phóng mặt bằng các công trình, dự án, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đồng bào theo tôn giáo hiệu quả chưa cao.
Hội đồng nhân dân có nơi chưa phát huy đầy đủ chức năng quyết định và giám sát theo quy định của pháp luật. Quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân một số nơi còn thiếu nhanh nhạy, có việc giải quyết chưa kịp thời. Vẫn còn tình trạng một số cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu chủ động, thiếu đột phá trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và thực thi nhiệm vụ, làm việc cầm chừng, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
Hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chậm đổi mới; công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết đoàn viên, hội viên và nhân dân có lúc chưa theo kịp yêu cầu.
2. Lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2021 - 2025 còn thấp; hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; quy mô nền kinh tế còn nhỏ. Cơ cấu thu ngân sách thiếu bền vững, chưa đồng đều giữa các khoản thu, các khoản thu từ đất chiếm tỉ trọng lớn. Tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thủy sản chưa cao; liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ phát triển còn chậm; kết quả xây dựng nông thôn mới không đồng đều giữa các địa phương, nguồn lực còn hạn chế. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp chưa đạt kế hoạch, chưa trở thành động lực phát triển. Giá trị sản xuất trong các khu kinh tế, khu công nghiệp đang chiếm tỉ trọng thấp so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Sản phẩm du lịch chưa thực sự đa dạng, chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch cho khách quốc tế chưa bảo đảm. Đa số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính và khả năng hội nhập quốc tế còn hạn chế, chưa có nhiều hoạt động hợp tác sản xuất, kinh doanh, đầu tư với nước ngoài.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng đô thị, hạ tầng giao thông liên vùng, hạ tầng kỹ thuật - xã hội các khu kinh tế, khu công nghiệp...; nguồn lực đầu tư hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu. Giải ngân vốn đầu tư công có thời điểm chưa đạt tiến độ đề ra; một số vướng mắc về giải phóng mặt bằng, thủ tục pháp lý chưa được giải quyết triệt để. Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) còn hạn chế, chưa có nhiều dự án lớn, dự án có hàm lượng công nghệ cao. Nhiều dự án đầu tư chậm tiến độ so với chủ trương đầu tư được phê duyệt. Quản lý, khai thác tài nguyên có mặt còn hạn chế.
3. Lĩnh vực văn hóa, xã hội, con người
Thiết chế văn hóa, thể thao chưa được đầu tư đồng bộ; sản phẩm văn hóa - du lịch chưa tương xứng với tiềm năng. Ứng dụng công nghệ số, dịch vụ công trực tuyến còn hạn chế; đội ngũ cán bộ chuyển đổi số còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và y tế còn thiếu; đội ngũ giáo viên, nhân lực y tế chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tình hình lao động, việc làm và đời sống một bộ phận Nhân dân còn khó khăn. Công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, tạo sinh kế còn thiếu bền vững; tỉ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao.
4. Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Tình hình an ninh, trật tự một số địa bàn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao có xu hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa đồng đều. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế và nhu cầu.
5. Nguyên nhân của những hạn chế
5.1. Nguyên nhân khách quan
Nguồn lực nội tại của tỉnh còn hạn chế; tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn ở mức thấp; những thay đổi trong chính sách thuế và xuất nhập khẩu làm giảm mạnh nguồn thu ngân sách nội địa, tác động tiêu cực đến khả năng cân đối tài chính của tỉnh. Yêu cầu về thu hút đầu tư ngày càng cao, trong khi chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng sản xuất, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển. Vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2020 - 2025 từ Trung ương giảm, tiến độ giải ngân chậm, ảnh hưởng đến nhiều dự án trọng điểm. Việc dự báo về thu hút nguồn lực đầu tư chưa sát thực tế, một số chỉ tiêu đặt ra vượt quá khả năng huy động nguồn lực; chưa có nhiều dự án động lực, dự án sản xuất, kinh doanh quy mô lớn,... nên chưa tạo được bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thiên tai, biến đổi khí hậu, cùng với các dịch bệnh nguy hiểm diễn ra phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ; sự bất ổn của tình hình chính trị trên thế giới, suy giảm kinh tế; các chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt; áp lực lạm phát tăng cao; giá xăng dầu, vật tư, nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh,... đã ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hoạt động xây dựng, đầu tư công.
5.2. Nguyên nhân chủ quan
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quyết liệt; khâu tổ chức thực hiện nhiệm vụ còn yếu; việc cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở một số nơi chưa sát với thực tiễn.
Dự báo tình hình chưa lường hết những rủi ro lớn xảy ra. Sự phối hợp một số cơ quan, địa phương trong quá trình thực hiện và giải quyết vướng mắc chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, có trường hợp còn đùn đẩy trách nhiệm.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa phát huy tối đa vai trò chủ động, tinh thần đổi mới sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một số cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa thể hiện tinh thần gương mẫu và quyết tâm vượt qua khó khăn, làm việc cầm chừng, thiếu trách nhiệm, ngại đổi mới vì lợi ích chung. Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
(Còn tiếp)