Thảm kịch nổ tàu ngầm hạt nhân khủng khiếp nhất của hải quân Mỹ - Kỳ cuối

Thảm kịch nổ tàu ngầm hạt nhân khủng khiếp nhất của hải quân Mỹ - Kỳ cuối
3 ngày trướcBài gốc
"SỰ CỐ NHỎ", THẢM KỊCH LỚN
Các tờ báo đương thời đưa tin về thảm kịch tàu USS Thresher. Ảnh: Naval History
Có lẽ không có thương vong nghiêm trọng nào về mặt nhân sự cho đến thời điểm đó. Nhưng tất cả mọi người trong tàu ngầm lúc này có thể đã cảm thấy rằng họ đang lao tới thảm họa và điên cuồng tìm kiếm một số phương tiện để thoát hiểm hoặc sống sót. Lớp bần cách nhiệt lót bên trong tàu ngầm bắt đầu nứt và có thể bong ra. Các đường ống nứt ra khi áp suất nước bắt đầu "co kéo" lớp thép cứng của tàu ngầm. Sau đó, thân tàu nổ tung. Sự phá hủy hoàn toàn có lẽ đã xảy ra chỉ trong 1/20 giây, quá nhanh để những người trong tàu ngầm có thể nhận ra về mặt nhận thức.
Hàng triệu lít nước dưới áp suất cực lớn đập vỡ thân tàu ngầm, làm vỡ nó ra, xoắn các bộ phận, làm tan rã các bộ phận khác. Giả thuyết cho rằng nước đã lấp đầy tàu Thresher đang lao xuống trước khi nó có thể phát nổ bị loại bỏ, vì trọng lượng nước bổ sung sẽ đẩy nhanh tốc độ rơi xuống và gây ra vụ nổ trước khi thân tàu có thể chứa đầy nước.
Nghi vấn về động cơ
“Sự cố nhỏ" mà Thresher gặp phải vào khoảng 09h13 đã dẫn đến thảm họa tàu ngầm tồi tệ nhất trong lịch sử là gì? Mặc dù vấn đề đó được gọi là "nhỏ", thuyền trưởng tàu Thresher đã sớm cố gắng loại bỏ các thùng chứa nước dằn để giúp tàu nổi lên mặt nước. Do đó, có vẻ như “sự cố nhỏ” đó chính là lý do khiến tàu ngầm trở nên "nặng". Điều này rất có thể xảy ra do mất lực đẩy hoặc bị ngập nước.
Đồ họa mô tả thân tàu hình điếu xì gà của tàu USS Thresher. Ảnh: Naval History
Có nhiều khả năng hơn là việc mất lực đẩy mới là khó khăn ban đầu. Với việc mất chuyển động về phía trước, Thresher bắt đầu chìm sâu hơn do nước dằn quá nặng. Khi đó, nỗ lực đẩy nước dằn ra sẽ rất khó khăn vì áp suất nước bên ngoài tăng lên. Trước khi có thể dừng chuyển động hướng xuống của tàu ngầm, con tàu đã vượt quá “độ sâu sụp đổ” của mình, với sự cố sau đó của các đường ống và phụ kiện tiếp nhận nước, đẩy tàu xuống sâu hơn nữa, cho đến khi thân tàu phát nổ.
Nhiều bằng chứng xác nhận rằng Thresher không bị ngập nước quá nặng trước khi thân tàu chịu áp lực sụp đổ ở độ sâu 2.400 feet (731 mét). Quan trọng nhất, phân tích âm thanh từ các bản ghi SOSUS "xác nhận mất điện và lò phản ứng bị tắt gần độ sâu thử nghiệm (1.300 feet), khoảng 9 phút trước khi thân tàu chịu áp lực sụp đổ".
Cựu Thuyền trưởng tàu Thresher, ông Axene tuyên bố rằng thông báo "cố gắng nổi lên" chỉ ra rằng động cơ đã bị mất vì tàu ngầm đáng lẽ phải nổi lên nhanh hơn bằng sức mạnh động cơ thay vì bỏ nước dằn. Ông cũng hình dung rằng lò phản ứng bị tắt có thể đã được mô tả là một vấn đề "nhỏ", ngay cả ở độ sâu đó.
Những bài học để lại
Sáu tháng sau thảm kịch, Hải quân Mỹ thông báo rằng toàn bộ 31 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đang được đóng tại Mỹ đều bị đình lại. Hải quân lưu ý rằng "những thiếu sót về thiết bị và tay nghề là những yếu tố góp phần" vào sự chậm trễ này. Các tàu ngầm lớp Thresher tiếp theo được cải tiến để tăng thêm độ nổi, với chương trình SUBSAFE cung cấp các tính năng an toàn bổ sung. Mọi tàu ngầm hạt nhân đang hoạt động đều bị giới hạn xuống tới 50% độ sâu thử nghiệm cho đến khi có thể thực hiện các sửa đổi SUBSAFE đối với chúng.
Ngoài ra, các quy trình khởi động lại sau khi lò phản ứng bị tắt đã được sửa đổi để giảm thời gian khởi động.
Các thủy thủ đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm USS Thresher ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ảnh: Getty Images
Thảm họa Thresher cũng đã cho thấy những hạn chế của Hải quân Mỹ đối với hoạt động tìm kiếm và cứu nạn dưới đại dương sâu. Vào năm 1964, Hải quân đã thành lập Dự án Hệ thống lặn sâu (DSSP) để phát triển và quản lý các hệ thống đại dương tiên tiến. Nỗ lực đó bao gồm các kế hoạch chế tạo 6 tàu ngầm cứu hộ có thể hoạt động ở “độ sâu sụp đổ” của tàu ngầm và hai phương tiện tìm kiếm dưới đại dương sâu có thể hoạt động ở độ sâu 20.000 feet (trên 6.000 mét), tức là bằng 90% độ sâu của đại dương.
Các hạng mục điều chỉnh khác còn bao gồm năng lực cứu hộ dưới biển sâu, định vị và thu hồi các vật thể nhỏ từ đáy đại dương, và sự ra đời của tàu ngầm cứu hộ chạy bằng năng lượng hạt nhân NR-1.
Tuy nhiên, khi tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân Scorpion (SSN-589) của Mỹ bị đắm vào năm 1968 cùng toàn bộ 99 người trên tàu, vẫn không có hoạt động cứu hộ hoặc trục vớt nào hiệu quả. Sau đó, Liên Xô cũng phải chịu tổn thất 5 tàu ngầm hạt nhân, nhưng có một số thủy thủ được cứu từ 4 tàu trong số đó khi chúng nổi lên mặt nước trước khi chìm. USS Thresher vẫn là tàu ngầm năng lượng hạt nhân đầu tiên bị đắm, và là thảm họa tàu ngầm tồi tệ nhất về số người thiệt mạng.
Thu Hằng/Báo Tin tức (Theo Naval History)
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/giai-mat/tham-kich-no-tau-ngam-hat-nhan-khung-khiep-nhat-cua-hai-quan-my-ky-cuoi-20241228203000453.htm