Thần tốc triển khai 'bộ tứ trụ cột' - Bài 1: Khát vọng giàu mạnh 2045

Thần tốc triển khai 'bộ tứ trụ cột' - Bài 1: Khát vọng giàu mạnh 2045
8 giờ trướcBài gốc
LTS: Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định “bộ tứ trụ cột” - gồm bốn nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, sẽ đưa đất nước cất cánh trong kỷ nguyên mới. “Bộ tứ trụ cột” được đánh giá là một bước nhảy vọt của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Để làm rõ hơn tầm vóc, vai trò, đồng thời cho thấy sự quyết liệt, quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong hiện thực hóa những nghị quyết quan trọng này, mời bạn đọc theo dõi tuyến bài “Thần tốc triển khai “bộ tứ trụ cột”” trên Pháp Luật TP.HCM, với sự tham gia của nhiều vị lãnh đạo, nhà khoa học, chuyên gia.
Tiến sĩ, nhà báo Nhị Lê, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, nhận định: Bốn nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, được xem là là “bộ tứ chiến lược” và cũng là tầm nhìn, cương lĩnh hành động và động lực phát triển để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, đưa Việt Nam phát triển giàu mạnh.
Tổng Bí thư Tô Lâm và lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tham quan triển lãm “Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân”. Ảnh: BÁO NHÂN DÂN
Đất nước trước khát vọng giàu mạnh
. Phóng viên: Đất nước vừa mới trải qua thời khắc vô cùng quan trọng, đại lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh (2-9-1945 – 2-9- 2025) mà chúng ta gọi là A80 được tổ chức trọng thể và thành công rực rỡ, đâu là ý nghĩa lớn nhất của sự kiện này đối với tầm nhìn phát triển đất nước hiện nay?
+ TS - nhà báo Nhị Lê: Với đại lễ A80, chúng ta đang chuẩn bị toàn diện: Tầm nhìn và triết lý, hành chính và kinh tế, tổ chức và lực lượng, tư tưởng và tâm lý… để năm 2026 bước vào và hành động trong kỷ nguyên mới - Việt Nam giàu mạnh. Đó là thời cơ to lớn nhưng cũng đang là thách thức nặng nề.
Trên nền tảng 80 năm đất nước độc lập, đặc biệt trong đó những thành tựu to lớn, có nghĩa lịch sử của 40 năm đổi mới toàn diện, đồng bộ, đây là thời kỳ mới, thách thức mọi giới hạn phát triển bằng tầm viễn kiến chiến lược mới, với nghệ thuật xử lý thời cơ; bằng cải cách hệ thống bộ máy và vận hành bằng cơ chế phù hợp, trung tâm là kiểm soát và cân bằng quyền lực thông qua hệ thể chế đồng bộ, phù hợp và hiệu quả ở tất cả phương diện (chính trị, kinh tế, xã hội…), đối với mọi tổ chức của hệ thống chính trị, ở mọi quy mô, cấp độ (Trung ương, địa phương, cơ sở) và mỗi con người. Cùng với đó, bằng phương thức mới tập hợp lực lượng đông đảo; bằng động lực phát triển mới với hệ chính sách thực thi tổng thể, phù hợp, thống nhất, đồng bộ và đủ mạnh… nhằm tạo ra tốc độ phát triển vượt bậc và toàn diện với quy mô và chất lượng mới, trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, trong sự phát triển của thế giới, tầm nhìn tới năm 2045.
Đó là khát vọng Việt Nam giàu mạnh! Hoặc là hiện nay hoặc khó có thể bao giờ hiện thực hóa khát vọng quốc gia giàu mạnh trong tầm nhìn năm 2045.
“Kim chỉ nam” về tầm nhìn và tư duy
. Để tiến đến khát vọng giàu mạnh năm 2045, đất nước cần đổi mới tầm nhìn và tư duy như thế nào, thưa ông?
+ Trong tổng thể phát triển đất nước, chúng ta tiếp tục đổi mới tầm nhìn và tư duy theo sáu định hướng quan trọng.
Thứ nhất là cách mạng tư duy và tri thức hóa xã hội: Chuyển đổi nền tảng phát triển từ tài nguyên, lao động giá rẻ sang tri thức, sáng tạo và đổi mới công nghệ. Xây dựng con người có tầm vóc tư tưởng, bản lĩnh văn hóa, trí tuệ khoa học và trách nhiệm công dân.
Hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp tại Khu công nghệ cao TP.HCM. Ảnh: HOÀNG QUÂN
Thứ hai là kiến tạo thể chế và quản trị quốc gia hiện đại: Cải cách chính trị, làm rõ trách nhiệm cá nhân - tổ chức - thể chế. Phân quyền, phân cấp mạnh mẽ, đi đôi với kiểm soát quyền lực bằng pháp luật và văn hóa. Bộ máy tinh gọn không phải là con số mà là con người.
Thứ ba là xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập thông minh: Định hình kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tri thức với tốc độ tương ứng chất lượng nguồn nhân lực kinh tế. Ưu tiên đầu tư vào giáo dục, khoa học công nghệ, hạ tầng số - phải coi đó là quốc phòng và an ninh về kinh tế và xã hội.
Thứ tư là tái cấu trúc văn hóa - đạo đức - giáo dục: Văn hóa phải dẫn dắt phát triển, không phải là hệ quả sau cùng. Xây dựng hệ sinh thái đạo đức - văn hóa quốc gia như một quốc bảo.
Thứ năm là khơi dậy khát vọng phát triển và sức mạnh toàn dân: Đặt nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu và động lực. Tôn trọng dân chủ thực chất là với tư cách một giá trị phát triển chứ tuyệt đối không phải là phương tiện phát triển, phát huy trí tuệ xã hội như một đạo lý phát triển.
Cuối cùng là phát triển bền vững và chủ động toàn diện trước biến đổi toàn cầu: Đề cao lòng tin chiến lược quốc gia trong môi trường địa chính trị quốc tế mới. Định vị Việt Nam như một quốc gia bản lĩnh, danh dự giữa thời đại biến động và thế giới bất định.
Trong tầm nhìn xa, một bước tiến trong thực tiễn có giá trị hơn mọi lý thuyết tốt đẹp hay những triết lý viển vông. Hiện thực là sức mạnh cụ thể làm nên sức mạnh, vị thế và danh dự quốc gia. Nói cách khác, từ tầm nhìn, hệ giá trị và mục tiêu phát triển, tiếp tục phát hiện, kiến tạo và thực thi một hệ thống động lực chiến lược vừa làm nền tảng và là sức mạnh đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và bước vào hàng ngũ các quốc gia phát triển.
Thúc đẩy sáu động lực trụ cột
. Chúng ta muốn phát triển, không chỉ cần có khát vọng cũng như đổi mới tư duy, tầm nhìn mà cần có những động lực cụ thể để thúc đẩy cả bộ máy, theo ông, những động lực mà Việt Nam cần nắm bắt sớm là gì?
+ Thực tiễn đã và đang hối thúc, không phát hiện và nắm lấy động lực thì không có bất cứ sự phát triển đúng hướng, mạnh mẽ và bền vững nào như mong muốn. Do đó, không có cách nào đúng đắn và tin cậy hơn, chúng ta phát hiện và phát triển hệ động lực của kỷ nguyên mới.
Từ thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước, trước tiên, tôi nghĩ cần tiếp tục xác lập và phát triển động lực chính trị: Đảng mạnh - Nhà nước liêm chính - nhân dân là trung tâm. Không có chính trị vững vàng thì không thể có phát triển bền vững.
Do đó, Đảng phải là hạt nhân sáng tạo, khai sáng và không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, cầm quyền; xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với ba trụ cột thực thi: Cải cách thể chế - cải cách quản trị và bộ máy tinh gọn, phục vụ nhân dân thống nhất với phát triển lợi ích quốc gia trên nền móng khơi dậy và phát huy sức dân - trí dân - lòng dân thành lực lượng phát triển vô hạn. Đó là sự tạo thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, động lực con người và khát vọng dân tộc. Đặt con người Việt Nam vào trung tâm chiến lược phát triển, từ nguồn lực thành chủ thể sáng tạo. Khơi dậy khát vọng phú cường, cổ vũ tự tôn, tự cường, tự trọng dân tộc và tinh thần vượt mọi thách thức, mọi giới hạn trên đường phát triển. Đổi mới căn bản giáo dục, xây dựng con người trí tuệ, đạo đức và trách nhiệm. Đó là trung tâm tư duy và hành động của Đảng.
Thứ ba, động lực thể chế và pháp luật phát triển. Cải cách thể chế một cách đồng bộ, minh bạch, hiệu quả. Thể chế hóa hệ giá trị Việt Nam hiện đại, như dân chủ thực chất, pháp quyền nhân văn, quản trị công khai. Giảm can thiệp hành chính, tăng tính tự chủ cho doanh nghiệp, xã hội và các vùng lãnh thổ. Đó là “bảo kiếm” lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ tư, động lực khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo kinh tế. Khoa học - công nghệ là trụ cột của nền kinh tế tự chủ và hiện đại hóa và kiến tạo thương hiệu quốc gia. Đầu tư mạnh mẽ và tương xứng vào chuyển đổi số, công nghiệp 4.0, AI, năng lượng sạch. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo từ giáo dục - doanh nghiệp - chính sách - con người. Đó là sức mạnh căn bản bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ năm, động lực văn hóa - đạo đức - bản sắc Việt. Phát triển kinh tế đi đôi với phục hưng văn hóa dân tộc, không đánh đổi văn hóa lấy tăng trưởng; không hy sinh văn hóa sinh thái đổi lấy kinh tế… Tái lập trật tự giá trị - đạo đức công - liêm chính xã hội. Xây dựng văn hóa dân chủ, văn hóa pháp quyền, văn hóa đổi mới, văn hóa cống hiến. Không có văn hóa làm cốt lõi, không thể lãnh đạo, cầm quyền nhân văn, quốc gia không thể phát triển bền vững và uy tín. Đó là nền móng và rường cột sức mạnh và uy tín lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ sáu, động lực hội nhập và phát triển có bản sắc. Chủ động hội nhập toàn diện nhưng trên nền tảng độc lập tự quyết, vì lợi ích dân tộc với bản lĩnh Việt Nam. Xây dựng một Việt Nam đối tác tin cậy - thành viên tích cực - trung tâm kết nối khu vực và thế giới; góp phần xây dựng trật tự thế giới đa cực - dân chủ - bền vững nhằm nâng cao quốc thể, sức mạnh và uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Đó là sự tiếp nối vai trò, sức mạnh lãnh đạo, cầm quyền bên ngoài quốc gia của Đảng.
“Bộ tứ trụ cột” mang tính chiến lược
. Từ việc đổi mới một cách toàn diện về tư duy, tầm nhìn đến thúc đẩy các động lực trụ cột trong kỷ nguyên mới, ông nhận định thế nào về việc hiện thực hóa khát vọng giàu mạnh năm 2045 mà Đảng và Nhà nước triển khai?
+ Nói một cách tổng hòa, việc thay đổi tư duy, tầm nhìn và thúc đẩy các động lực trụ cột mà tôi đề cập ở trên chính là kết tinh trí tuệ và phẩm giá của quốc gia, của dân tộc, của thế giới mà Đảng thâu thái thể hiện bằng tư duy chính trị của mình trên cương vị dẫn dắt dân tộc, quyết định vận mệnh quốc gia trong thời đại. Đó cũng chính là nghệ thuật lấy thế tạo thời, “gieo hạt mùa giữa giông bão” và biến thời thành lực lượng trong lãnh đạo, cầm quyền dẫn dắt dân tộc, phụng sự quốc gia của Đảng, dẫn dắt đất nước tới mục tiêu giàu mạnh.
Tổng Bí thư chỉ đạo tám nhiệm vụ trọng tâm
Chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị hồi giữa tháng 5-2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị toàn hệ thống chính trị khẩn trương thực hiện tám nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia thực hiện bốn nghị quyết, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình và phân công cụ thể. Đồng thời, lập bộ chỉ số theo dõi, đánh giá định kỳ. Thứ hai, khẩn trương rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW...
Thứ ba, khởi động ngay các chương trình trọng điểm về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phê duyệt, triển khai các chương trình quốc gia; hình thành thêm các trung tâm đổi mới sáng tạo mới; xây dựng khung pháp lý cho mô hình sandbox.
Thứ tư, tập trung đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, chủ động chuẩn bị tham gia các hiệp định mới tận dụng cam kết hội nhập để chuyển hóa thành tăng trưởng thực tế…
Thứ năm, thực hiện đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: Cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, số hóa dịch vụ công, hỗ trợ vốn, công nghệ, chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng đề án phát triển tập đoàn tư nhân lớn.
Thứ sáu, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các nghị quyết; thành lập các ban chỉ đạo chuyên trách cấp Trung ương và cấp tỉnh; bảo đảm cơ chế chỉ đạo thống nhất, kiểm tra, giám sát thường xuyên.
Thứ bảy, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để triển khai nghị quyết: Đào tạo chuyên sâu về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và quản trị doanh nghiệp; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có tư duy đổi mới, năng lực số và khả năng thích ứng toàn cầu.
Thứ tám, đẩy mạnh truyền thông, tạo đồng thuận xã hội: Xây dựng các chương trình truyền thông quốc gia về từng nghị quyết; tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân và giới trí thức, huy động trí tuệ xã hội cho quá trình triển khai.
Vì thế, trước thềm kỷ nguyên mới, chỉ trong năm tháng, Đảng ta ban hành bốn quyết sách chính trị lớn như những động lực phát triển, gồm: Nghị quyết 57 - NQ/TW về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, yếu tố được xem là động lực tiên quyết để tăng tốc phát triển; Nghị quyết 59 - NQ/TW về hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; Nghị quyết 66 - NQ/TW về đổi mới công tác lập pháp, hoàn thiện thể chế để tạo hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng, thúc đẩy phát triển và Nghị quyết 68 - NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.
Có thể gọi đó là “bộ tứ chiến lược” cấu thành chỉnh thể tư tưởng và hành động mà Tổng Bí thư Tô Lâm gọi là “bộ tứ trụ cột”. Và trên tầm vĩ mô, đó cũng là tầm nhìn, cương lĩnh hành động và động lực phát triển của đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên đưa Việt Nam phát triển giàu mạnh.
. Xin cám ơn ông.
Bứt phá thể chế - khơi thông động lực, đưa Việt Nam cất cánh
Nếu trong 40 năm đổi mới, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 6,4%-6,5%, với đỉnh cao 9,54% năm 1995 và mức thấp nhất 2,6% vào năm đại dịch 2021 thì để “tăng tốc, cất cánh”, đất nước phải vượt qua ngưỡng 8%-10% và giữ vững đà này. Chính vì vậy, Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được coi là trụ cột chiến lược trong tầm nhìn phát triển đến năm 2045.
Hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp giày tại Cần Thơ. Ảnh: TTXVN
Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên ngay trong năm nay, tiến tới mức tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2045, đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, yêu cầu bức thiết là bứt phá, tăng tốc toàn diện, đặc biệt tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân và khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như tinh thần Nghị quyết 68. Đây là khu vực đang giữ vai trò động lực then chốt, song còn đối diện với nhiều rào cản về thể chế, pháp lý và môi trường kinh doanh.
Đảng nắm lấy pháp luật để lãnh đạo và cầm quyền. Muốn hóa giải những “chướng ngại” đó, phải tháo gỡ những điểm nghẽn tổng thể về thể chế pháp lý. Pháp luật là nền tảng phát triển; nếu thể chế thiếu minh bạch, thiếu hiệu lực, sẽ không thể tạo dựng niềm tin và động lực cho doanh nghiệp, người dân cũng như toàn bộ hệ thống chính trị hành động thống nhất, kỷ cương, sáng tạo. Đồng thời, Việt Nam phải kiến tạo một “thương hiệu kinh tế quốc gia” mạnh mẽ, gắn với chuỗi giá trị toàn cầu, tăng tốc cả về quy mô, tốc độ lẫn chiều sâu hội nhập quốc tế. Do đó, càng cần đổi mới toàn diện chính sách để xây dựng một hệ thể chế thông minh, linh hoạt, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế năng động này. Đó cũng là cách kiến tạo môi trường thuận lợi, cổ vũ những ý tưởng mới, sự sáng tạo và dành sự tôn vinh xứng đáng cho cộng đồng doanh nhân trên nền tảng pháp lý và đạo lý vững chắc.
Theo tinh thần Nghị quyết 66, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và đổi mới cơ chế phù hợp sẽ khơi dậy và phát huy tối đa trí tuệ, sức sáng tạo của toàn dân tộc, phát triển kinh tế song hành với xã hội, đồng thời khẳng định thương hiệu và danh dự quốc gia trong tiến trình hội nhập. Nếu Nghị quyết 66 được xem là “kim chỉ nam” cho việc hoàn thiện pháp luật, kể cả ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo để rà soát, đồng bộ, khắc phục chồng chéo trong hệ thống văn bản thì Nghị quyết 68 lại trực tiếp trả lời câu hỏi: Phải làm gì, làm thế nào để khu vực kinh tế tư nhân - hiện đóng góp hơn 51% GDP và 55% tổng vốn đầu tư toàn xã hội - trở thành động lực chủ đạo đưa nền kinh tế cất cánh.
Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% năm 2025, tiến tới mức tăng trưởng hai con số từ năm 2026 đến 2045, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc tạo bứt phá toàn diện, với trọng tâm phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân - một động lực lớn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù chiếm tỉ trọng lớn, khu vực này vẫn đang chịu nhiều ràng buộc về thể chế, pháp lý, môi trường kinh doanh… và chỉ khi dỡ bỏ được các rào cản ấy, nó mới phát triển đúng tầm vóc, đóng góp xứng đáng cho quốc gia. Đây cũng là tinh thần xuyên suốt của Nghị quyết 66 trong bối cảnh hiện nay.
“Bộ tứ quyết sách chiến lược” chính là nền tảng cho một cuộc cách mạng phát triển mới, hiện thực hóa khát vọng không chỉ bằng chính sách, mà sâu hơn, bằng tư duy phát triển hiện đại, đột phá và thực chất; thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững và nhân văn. Đó là một “tổ hợp quyết sách” có tính kiến tạo, thống nhất, tương hỗ, tạo thành chỉnh thể phát triển toàn diện và hệ thống.
Nói một cách hình ảnh, đó là kết cấu rường cột của sự phát triển kinh tế - xã hội mang tầm chiến lược, đánh dấu bước ngoặt trong tư duy, tạo tiền đề cho một cuộc cách mạng mang bản sắc Việt Nam, hòa nhịp cùng xu thế thế giới. Đó cũng chính là bước chuyển lớn về tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh hành động và động lực đột phá mà Đảng kiến tạo để đưa đất nước cất cánh sau 40 năm đổi mới, tiến bước tất yếu, mạnh mẽ và hiện thực đến một Việt Nam phú cường.
TS NHỊ LÊ
ĐỖ THIỆN thực hiện
Nguồn PLO : https://plo.vn/video/than-toc-trien-khai-bo-tu-tru-cot-bai-1-khat-vong-giau-manh-2045-post869373.html