Do vậy nếu chính sách tài khóa - tiền tệ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, cùng các biện pháp ổn định thị trường lương thực - thực phẩm và điều chỉnh giá dịch vụ công một cách minh bạch, mục tiêu giữ lạm phát năm 2025 dưới 4% là khả thi. Nhưng bước sang 2026, rủi ro lạm phát sẽ lớn hơn, nếu chủ quan với tín dụng nóng hoặc điều chỉnh giá dịch vụ công dồn dập.
PGS.TS Ngô Trí Long.
PHÓNG VIÊN: - Ông có thể đánh giá tổng quan về diễn biến thị trường và lạm phát hiện nay?
PGS.TS NGÔ TRÍ LONG: - Thứ nhất, nền tảng kinh tế vĩ mô nhìn chung tích cực. 9 tháng năm 2025, GDP tăng khoảng 7,8-7,9%, riêng quý III trên 8,2% - thuộc nhóm mức tăng cao nhất hơn một thập niên qua. Xuất khẩu tăng trên 17%, thương mại thặng dư lớn, FDI giải ngân tăng 8,5% - cao nhất 5 năm gần đây. Chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng, tín dụng được định hướng tăng khoảng 19-20%, lãi suất cho vay duy trì thấp, góp phần giữ nhịp phục hồi của doanh nghiệp.
Thứ hai, xét theo số liệu, lạm phát vẫn nằm dưới ngưỡng mục tiêu cho phép. CPI bình quân 10 tháng tăng 3,27%, lạm phát cơ bản tăng 3,2%, đều thấp hơn trần 4,5% của Quốc hội cho phép. Tuy nhiên, cảm nhận lạm phát của người dân lại mạnh hơn, do các nhóm hàng thiết yếu tăng giá nhanh hơn mức bình quân chung.
Thứ ba, cơ cấu lạm phát đang chuyển từ “lạm phát do xăng dầu” sang “lạm phát chi phí sinh hoạt”. Giá dịch vụ y tế tăng khoảng 13,4%, nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 6,2%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng hơn 3,1%, giáo dục tăng gần 2%. Trong khi đó, nhóm giao thông giảm hơn 2,6% nhờ giá xăng dầu hạ. Điều này khiến nhiều hộ gia đình dù lạm phát chung dưới 4%, nhưng chi tiêu thực tế cho ăn uống, thuốc men, nhà ở, học phí lại nặng nề hơn.
Giá cả nhiều loại hàng hóa đang tăng mạnh khiến người tiêu dùng lo ngại.
Thứ tư, thiên tai liên tiếp đã làm chi phí lương thực - thực phẩm biến động mạnh. Những cú sốc nguồn cung này phản ánh ngay vào giá rau củ, thịt cá và ăn uống ngoài gia đình - nhóm đóng góp lớn nhất vào mức tăng CPI tháng 10.
Thứ năm, chính sách tài khóa - tiền tệ đang hỗ trợ giữ ổn định giá cả, nhưng dư địa không còn quá lớn. Việc kéo dài giảm 2% thuế VAT giúp kìm đà tăng giá, còn điều hành tiền tệ giữ được lạm phát cơ bản thấp. Tuy nhiên, nếu tín dụng tăng nhanh đi kèm rủi ro bất động sản hoặc giá dịch vụ công điều chỉnh mạnh, áp lực lạm phát có thể tăng trở lại.
Nếu nhìn toàn cảnh, tăng trưởng kinh tế vẫn đang ở mức khá cao, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng áp lực chi phí sinh hoạt và giá các dịch vụ thiết yếu đang tăng lên rõ rệt.
- Đúng là như ông nói, thực tế thời gian qua cho thấy giá cả nhiều loại hàng hóa trên thị trường (đặc biệt là những mặt hàng thiết yếu phục vụ sinh hoạt hằng ngày như lương thực, rau củ, thực phẩm…) đã tăng mạnh khiến người tiêu dùng lo ngại, nhất là tầng lớp lao động thu nhập thấp. Vậy việc tăng giá nói trên chỉ là “cục bộ” (do thiên tai, bão lũ…), hay đó là những yếu tố khác (như tỷ giá tiền tệ, giải ngân đầu tư công cuối năm…) là dấu hiệu thiết lập mặt bằng giá mới?
- Theo tôi, phải tách bạch hai tầng. Một là cú sốc giá “trước mắt” do thiên tai, đứt gãy cung ứng; hai là những yếu tố mang tính nền tảng như tỷ giá, chi phí đầu vào, giải ngân đầu tư công cuối năm… đang đẩy mặt bằng giá chung nhích lên một bậc so với giai đoạn trước. Vì vậy tăng giá phải nhìn nhận dưới góc độ.
Năm 2025, Việt Nam hứng chịu liên tiếp bão, mưa lớn, lũ lụt ở miền Trung và miền Bắc.
Thứ nhất, đợt tăng giá rau củ, thực phẩm hiện nay đúng là chịu tác động rất mạnh của thiên tai, bão lũ nhưng không chỉ là “cục bộ”. Bởi năm 2025, Việt Nam hứng chịu liên tiếp bão, mưa lớn, lũ lụt ở miền Trung và miền Bắc. Tính đến đầu tháng 10, thiên tai đã gây thiệt hại ước khoảng 35.000 tỷ đồng (khoảng 1,3 tỷ USD), chưa tính các đợt ngập lụt sau đó và chi phí sửa chữa phương tiện, nhà cửa của người dân.
Theo đó, nhiều vùng sản xuất rau màu, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản bị ngập sâu; giao thông ách tắc, đường sắt Bắc - Nam tạm dừng, nhiều tuyến quốc lộ bị chia cắt. Hệ quả là nguồn cung rau củ tươi, thực phẩm tươi sống vào các đô thị lớn bị hụt, chi phí vận chuyển đội lên, nên giá tại chợ, siêu thị tăng “chóng mặt” là điều dễ hiểu.
Về thống kê, nhóm “lương thực, thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình” chiếm khoảng 1/3 rổ CPI, nên chỉ cần tăng vài điểm phần trăm đã kéo chỉ số giá chung lên đáng kể. 6 tháng đầu năm, giá nhóm này đã tăng quanh 3,7% so với cùng kỳ; riêng giá thịt heo có thời điểm tăng hơn 10-12% vì nguồn cung hạn chế. Khi thiên tai ập đến dồn dập vào quý III và IV, đã cộng hưởng thêm một “làn sóng” tăng giá mới trên nền giá vốn đã cao sẵn.
Thứ hai, nếu nhìn toàn nền kinh tế, lạm phát đến nay vẫn “trong tầm kiểm soát”, nhưng rõ ràng mặt bằng giá đã cao hơn giai đoạn vài năm trước. Theo Cục Thống kê, 10 tháng đầu năm 2025, CPI bình quân tăng 3,27% so với cùng kỳ; riêng tháng 10 chỉ tăng 0,2% so với tháng 9, thấp hơn mục tiêu kiểm soát lạm phát là 4,5%. Điều này cho thấy chưa có tình trạng “phi mã”, nhưng phải thấy là mặt bằng giá 2024–2025 đã được “đẩy lên một nấc”.
Đơn cử năm 2024, CPI tăng 3,63%, trong đó giá lương thực - thực phẩm tăng trên 12%, giá gạo tăng gần 16%, giá nhà ở, điện nước, vật liệu xây dựng tăng hơn 5%… Nghĩa là người dân đã phải “làm quen” với một mức giá mới từ năm 2024. Còn đợt tăng giá hiện nay chồng lên một nền giá đã cao, nên cảm giác “nghẹt thở” là dễ hiểu, đặc biệt với nhóm thu nhập thấp có tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống lên tới 40–50% ngân sách hộ.
Thứ ba, bên cạnh thiên tai, đang có một loạt yếu tố chi phí đẩy mang tính cơ cấu: tỷ giá, giá năng lượng, điều chỉnh giá dịch vụ công, giải ngân đầu tư công. Với tỷ giá và chi phí nhập khẩu: Nửa đầu năm 2025, tỷ giá biến động khá mạnh, gây áp lực chi phí cho doanh nghiệp nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, phân bón, nguyên liệu, thiết bị. Nhiều doanh nghiệp thừa nhận chi phí tài chính tăng, biên lợi nhuận bị bào mòn do biến động tỷ giá. Phần chi phí này cuối cùng vẫn phải “đẩy” vào giá bán lẻ.
Với năng lượng như giá điện, dịch vụ công, giáo dục, y tế: Các lần điều chỉnh giá điện, viện phí, học phí trong 2024–2025 tạo ra một mức chi phí cố định mới cho doanh nghiệp và hộ gia đình, phản ánh trong lạm phát cơ bản quanh 3,2-3,3%. Đây là những yếu tố không dễ “giảm ngược” trở lại như rau củ sau vụ mùa.
Ảnh minh họa
Với giải ngân đầu tư công: Cuối năm 2025, kế hoạch đầu tư công từ ngân sách nhà nước lên tới gần 900.000 tỷ đồng. Sau 10 tháng, mới giải ngân khoảng 51-55% kế hoạch; để hoàn thành mục tiêu, 2 tháng cuối năm phải bơm thêm hơn 400.000 tỷ đồng. Việc “tăng tốc” dồn vào quý cuối năm chắc chắn làm nhu cầu vật liệu xây dựng, nhân công, vận tải tăng mạnh, đẩy lên giá cát, đá, xi măng, xăng dầu nội địa, từ đó lan sang giá hàng hóa, dịch vụ khác.
Nếu nói thuần túy về thống kê vĩ mô, có thể khẳng định đến thời điểm này, Việt Nam chưa rơi vào vòng xoáy lạm phát cao mới; CPI cả năm nhiều khả năng vẫn xoay quanh 3,3-3,7%, dưới ngưỡng mục tiêu. Tuy nhiên, với người tiêu dùng, nhất là công nhân, lao động thu nhập thấp, mặt bằng giá các mặt hàng thiết yếu đã và đang hình thành một “mức mới”, và khó có khả năng quay lại mặt bằng trước 2022-2023, bởi chi phí sản xuất - lưu thông - dịch vụ công đều đã tăng cấu trúc. Đợt tăng “chóng mặt” do bão lũ vừa rồi chủ yếu mang tính ngắn hạn, nhưng nó diễn ra trên nền chi phí đầu vào và dịch vụ công đã cao hơn, nên cảm nhận là “tăng toàn diện”.
- Xin cảm ơn ông.
Đợt tăng giá rau củ, thực phẩm gần đây phần lớn mang tính “cú sốc cung” do thiên tai, nên có thể hạ nhiệt khi sản xuất và lưu thông bình thường trở lại. Nhưng phía sau cú sốc đó là một mặt bằng chi phí mới đang được thiết lập dần dần trong 2-3 năm qua.
THANH HÀ (thực hiện)