Thành phố Huế và trận đại hồng thủy năm 1904

Thành phố Huế và trận đại hồng thủy năm 1904
3 giờ trướcBài gốc
Cầu Thành Thái (Trường Tiền) ở Huế bị phá hủy. Ảnh trên tuần báo L’Illustration.
Ngày 11/9/1904, thành phố Huế đã phải hứng chịu một trong những trận đại hồng thủy khủng khiếp trong lịch sử hiện đại của mình.
Thảm họa bất ngờ với sức tàn phá khủng khiếp
Theo các tờ L'Avenir du Tonkin từ ngày 15 đến ngày 26/9/1904, tờ Hygiene de l’Indochine, tờ Le Monde Illustré, thời điểm xảy ra thảm họa trùng với dịp thành phố Huế đang tổ chức lễ mừng thọ 50 năm của Hoàng Thái hậu - mẹ vua Thành Thái. Nhiều nghi lễ long trọng đã diễn ra trong Hoàng thành với sự tham dự của các quan chức Pháp và người bản xứ từ khắp mọi nơi.
Huế khi đó là kinh đô của xứ An Nam, dưới sự kiểm soát của chính quyền bảo hộ Pháp. Thành phố có khoảng 40.000 dân, trong đó chỉ vài trăm người Pháp, chủ yếu là quân nhân và công chức.
Thời điểm này là cuối mùa hè, mùa thu hoạch lúa đang đến gần. Tháng 9 là thời điểm chuyển mùa, trước khi bước vào mùa mưa. Mưa bắt đầu rơi từ tối thứ bảy, nhưng không ai ngờ rằng một cơn bão dữ dội đang đến gần. Đến trưa chủ nhật, từ 12h đến 16h, Huế trải qua bốn giờ ác mộng khi cơn bão đạt đỉnh, gây ra trận đại hồng thủy chưa từng có kể từ năm 1855.
Thành phố trở nên hoang tàn: cây cối bị quật ngã, nhà cửa của người dân bị phá hủy, các công trình xây bằng gạch đều hư hại. Chỉ một số ít tòa nhà có mái bằng là còn đứng vững.
Cây cầu sắt mới khánh thành năm 1900 bị hư hại nặng nề: 4 trong số 6 nhịp cầu bị lật và rơi xuống sông Hương. Mỗi nhịp dài 65 mét, nặng 150 tấn. Ngay cả mái che nặng nề của cầu ngói Thanh Toàn cũng bị gió cuốn bay.
Tòa khâm sứ hư hỏng nặng. Ảnh TL.
Phải mất vài ngày người ta mới đánh giá được thiệt hại. Tại Huế và vùng phụ cận đã ghi nhận hơn 3.000 người chết, 22.000 ngôi nhà bị phá hủy, 529 tàu bè bị chìm. Riêng trong thành phố, gần 700 mái nhà bị thổi bay. Con số thực tế có thể còn cao hơn. Lũ lụt cuốn trôi mọi thứ, phá hủy ruộng đồng, giết chết hàng nghìn gia súc. Nhiều người sống trên thuyền mất cả nhà lẫn phương tiện sinh kế.
Người dân bản xứ hoang mang, không biết đi đâu, không còn gì để ăn hay nơi để ở. Một số người Pháp phải bỏ nhà chạy đến trú tại “cercle” - một trong số ít tòa nhà có mái bằng còn trụ vững. Ngay cả doanh trại cũng bị tàn phá, và mái của Tòa Khâm sứ tại Huế cũng bị thổi bay. Khách sạn đầu tiên của Huế do Alphonse Guerin làm chủ, cũng bị dột, nhưng nhờ có mái bằng nên vẫn đứng vững. Sau này, khách sạn đó trở thành khách sạn nổi tiếng Morin.
Chỉ có một người Pháp thiệt mạng: Cha Dangelzer thuộc Hội Thừa sai Paris, Tổng đại diện giáo phận. Ông bị tường nhà xứ đổ sập xuống người tại nhà thờ Kim Long, hưởng thọ 65 tuổi. Mộ ông hiện nằm trong khuôn viên Chủng viện Huế.
Các đường dây điện báo đều bị đứt, chỉ có tuyến cáp ngầm dưới biển là còn hoạt động. Báo chí Hà Nội và Sài Gòn bắt đầu đưa tin về “thảm họa” vào ngày 15 tháng 9, tức 4 ngày sau khi bão đi qua.
Cầu Tràng Tiền - Phần bị sập đã bị cuốn xuống sông trong trận bão. Ảnh TL.
Trận đại hồng thủy qua mô tả của một phóng viên
Phóng viên Alfred Raquez tờ L’Avenir du Tonkin có mặt tại Huế để đưa tin về lễ mừng thọ. Ông lên đường về Đà Nẵng bằng thuyền khi gặp bão. Câu chuyện của ông được đăng tải vài ngày sau đó.
Ông khởi hành vào ban đêm, dự định đến Đà Nẵng để lên tàu về Hà Nội. Quãng đường khoảng 100 km qua biển hoặc đầm phá. Khi ông rời Huế, mưa không ngừng rơi và lũ bắt đầu hình thành. Sáng hôm sau, họ vẫn còn ở kênh dẫn ra đầm phá. Đến 11 giờ, họ phải dừng lại và trú tại đình làng. Ngay sau khi dỡ hàng, thuyền bị chìm do sóng và gió lớn.
Đình là nơi rộng rãi và vững chắc nhất vùng. Người dân kéo đến trú ẩn. Ông mô tả cảnh tượng như địa ngục: người dân mắt trợn trừng, quỳ rạp xuống đất cầu xin ông giúp đỡ. Raquez đã lấy ra hai chai rượu từ hành lý. “Tôi khuyên các bạn nên dùng rượu absinthe nguyên chất khi gặp bão. Hiệu quả thật tuyệt vời. Một giờ sau khi phát rượu, dù bão vẫn dữ dội, 152 người trú ẩn đã gần như quên đi nỗi đau và bắt đầu trò chuyện trở lại”.
“Chúng tôi chứng kiến những hành động đẹp. Không một người đàn ông nào, dù đang run rẩy, uống một giọt rượu trước khi chăm sóc vợ con. Có người hứng những giọt cuối cùng trong cốc và mang đến cho một phụ nữ đang khóc nức nở ở góc đình. Anh ta cho vợ uống hết rồi quay lại chỗ mình, run rẩy nhưng lòng thanh thản”.
Raquez là một nhà thám hiểm thực thụ. Ông luôn mang theo “bộ dụng cụ leo núi” gồm phong vũ biểu, nhiệt kế và la bàn. Ông ghi nhận áp suất giảm xuống 722, trong khi bình thường là 760.
Cuối cùng, bão tan và nhóm của ông tiếp tục hành trình bằng một chiếc thuyền khác. Trên đầm phá, xác động vật và người nổi lềnh bềnh. “Lần đầu tiên, những người phụ nữ chèo thuyền trở nên im lặng và buồn bã”. Họ đến Cầu Hai vào chiều hôm sau. Nơi đây chỉ có duy nhất một tiệm tạp hóa do người Hoa làm chủ, bán hàng với giá cắt cổ. “Hắn đầu cơ vào cơn đói của chúng tôi”, họ nói.
Từ Cầu Hai, hành trình tiếp tục bằng võng khiêng. Tuy nhiên, phải đợi đến ngày hôm sau vì người ta đã nghe tiếng hổ gầm. Đồi núi quanh đèo Hải Vân đầy hổ, và chỉ có thể đi qua vào ban ngày.
Ngày hôm sau, ông đến được Đà Nẵng. Thành phố may mắn thoát khỏi thảm họa. Tuy nhiên, con tàu đi Hà Nội bị buộc phải dừng lại ở phía thượng nguồn để tránh bão. Ông nhận được tin về vụ đắm tàu La Tamise - chiếc tàu tốt nhất của xứ Bắc Kỳ nhưng may mắn là không có thương vong. Sau trận đại hồng thủy, Huế bắt tay vào công cuộc tái thiết.
Minh Châu - Hoàng Hằng
Nguồn Znews : https://znews.vn/thanh-pho-hue-va-tran-dai-hong-thuy-nam-1904-post1598062.html