Cần xây dựng chiến lược và thúc đẩy việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Ảnh: Quang Vinh.
Xuất khẩu gạo giảm cả lượng và giá
Theo số liệu thống kê sơ bộ của cơ quan Cục Hải quan (Bộ Tài chính), trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu gạo đạt hơn 7,53 triệu tấn gạo với trị giá trên 3,85 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 511,09 USD/tấn; giảm 10,9% về lượng và giảm 27,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó Philippines vẫn là thị trường dẫn đầu với hơn 3,3 triệu tấn, chiếm hơn 40% tổng lượng xuất khẩu, song kim ngạch lại giảm tới 24,2%. Sau khi nhập lượng rất lớn vào năm ngoái, quốc gia này siết nhập khẩu liên tục trong 4 tháng gần đây, khiến nhịp giao dịch chững lại đột ngột và dòng chảy gạo Việt thay đổi.
Còn thị trường Indonesia cũng nhập gần 988.600 tấn. Dù ổn định, song thị trường này không tạo được cú hích mới.
Trong khi đó lượng gạo xuất khẩu gia tăng tại các thị trường Ghana (tăng 52,64%), Trung Quốc (tăng 165,14%), Bangladesh (tăng gấp 238,48 lần) và Senegal (tăng khoảng 73 lần)…
Chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam tính đến tháng 10/2025 tập trung vào các loại gạo trắng chất lượng cao, gạo thơm các loại với tổng lượng gạo xuất khẩu chiếm 69% tổng lượng gạo xuất khẩu tính đến tháng 10/2025.
Theo ông Nguyễn Anh Sơn - Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), bối cảnh kinh tế, thương mại toàn cầu thời gian qua tiếp tục diễn biến phức tạp, tạo sức ép lớn lên hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có mặt hàng gạo.
Ông Sơn cho biết, chính sách bảo hộ xuất hiện trở lại ở nhiều nước dưới các hình thức khác nhau. Nhiều nước phát triển ngày càng quan tâm nhiều đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu, từ đó dựng lên những tiêu chuẩn và quy định mới với các sản phẩm nhập khẩu.
Xuất khẩu gạo năm 2026 chịu tác động từ yếu tố nào?
Ông Trần Quốc Toản - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) nhận định xuất khẩu gạo năm 2026 sẽ chịu tác động từ các yếu tố: Philippines dự kiến quay trở lại nhập khẩu từ tháng 1 năm 2026 mặc dù có sự thay đổi về thuế nhập khẩu gạo và có khả năng thay đổi quy định về nhập khẩu gạo nhưng là yếu tố thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2026; Sự quay trở lại nhập khẩu từ các thị trường truyền thống; Tín hiệu thị trường từ các thỏa thuận thương mại gạo giữa Việt Nam và các nước; Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được nâng cao gia tăng khả năng cạnh tranh gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Còn ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam nhấn mạnh, cần xác định lúa gạo là hàng hóa đặc biệt để theo dõi chặt chẽ nhằm đảm bảo tiêu thụ trong nước và an ninh lương thực, vừa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu; Cần có liên kết xây dựng một vùng nguyên liệu ổn định đáp ứng yêu cầu an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, ổn định chất lượng, xây dựng thương hiệu; Cần xác định sản xuất đáp ứng theo yêu cầu, tiêu chuẩn và số lượng của các quốc gia nhập khẩu. Trên cơ sở đó, ông Tùng kiến nghị Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các doanh nghiệp thành viên hợp tác với hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam xây dựng thí điểm một số vùng nguyên liệu đạt chuẩn theo tiêu chí của đề án 1 triệu ha; các doanh nghiệp ủng hộ, tích cực tham gia xây dựng vùng nguyên liệu theo Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”.
Riêng về việc tận dụng các ưu đãi từ Hiệp định thương mại tự do (FTA) để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) kiến nghị cần xây dựng kế hoạch, chiến lược tận dụng các FTA hiệu quả; Đặc biệt xây dựng chiến lược và thúc đẩy việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam; Tăng cường kết nối, cùng tiến cùng lùi với sự điều phối của cơ quan nhà nước, các hiệp hội.
H.Hương