Sau gần tám tháng “đóng băng” việc cấp mã số, Tổng cục Hải quan Trung Quốc mới đây đã phê duyệt thêm 829 vùng trồng và 131 cơ sở đóng gói của Việt Nam. Đây là đợt cấp phép có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, nâng tổng số vùng trồng đủ điều kiện xuất khẩu sầu riêng lên 1.396 và số cơ sở đóng gói lên 188. Thế nhưng, tin vui ấy vẫn không đủ để làm dịu nỗi lo đầu vụ khi mà xuất khẩu bốn tháng đầu năm 2025 chỉ đạt 35.000 tấn, giảm hơn 44.000 tấn so với cùng kỳ năm 2024, kéo theo kim ngạch tụt hơn 370 triệu đô la Mỹ. Giá sầu riêng tại vườn vì thế cũng lao dốc, hiện chỉ dao động từ 40.000-50.000 đồng/ki lô gam, giảm sâu so với mức 70.000-80.000 đồng/ki lô gam năm ngoái.
Nhiều người cho rằng sầu riêng Việt bị “vạ lây” từ vụ việc sầu riêng Thái Lan nhiễm cadimi và vàng O, song đó chỉ là một phần của câu chuyện. Trên thực tế, Trung Quốc đã nâng mức kiểm tra chất lượng từ ngẫu nhiên 10-20% lên 100% đối với lô hàng sầu riêng nhập từ Việt Nam. Trong khi đó, cả nước hiện mới có 20 phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn được phía Trung Quốc công nhận - một con số quá nhỏ so với nhu cầu. Điều này khiến tiến độ thông quan bị chậm, kéo theo hệ lụy về thị trường và giá cả.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không nằm ở phía thị trường mà từ chính nội tại ngành hàng. Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết sầu riêng Việt Nam liên tục bị cảnh báo kỹ thuật, nhiều lô hàng bị tạm dừng thông quan do không đạt yêu cầu. Trong khi đó, Thái Lan đã nhanh chóng đáp ứng các tiêu chuẩn mới, duy trì nhịp xuất khẩu ổn định với khoảng 500 container/mỗi ngày, tương đương 10.000 tấn/mỗi ngày, cùng tỷ lệ hàng bị trả về rất thấp.
Không thể phó mặc cho “vận may thị trường” để giải quyết bài toán tiêu thụ 1,5 triệu tấn sầu riêng mỗi năm. Trong bối cảnh tiêu chuẩn nhập khẩu ngày càng ngặt nghèo, đặc biệt từ Trung Quốc, chỉ có cách xây dựng một hệ sinh thái sầu riêng chuyên nghiệp, từ sản xuất, chế biến đến hậu kiểm, mới giúp ngành hàng này tránh được “vòng xoáy tiêu cực”: thừa hàng - rớt giá - mất thị trường - và nghiêm trọng hơn cả là đánh mất niềm tin từ đối tác quốc tế.
Những điểm yếu trong chuỗi giá trị ngành sầu riêng Việt Nam đã được mổ xẻ tại hội nghị “Phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức cuối tuần qua. Ông Vũ Phi Hổ, đại diện Công ty cổ phần Sầu riêng Tây Nguyên, phản ánh tình trạng nhiều cơ sở đóng gói chưa được cấp mã số vẫn hoạt động, đặc biệt tại Đắk Lắk - vùng nguyên liệu lớn nhất cả nước. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tính minh bạch mà còn làm suy giảm uy tín của sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.
Về sản xuất, hiện diện tích sầu riêng được cấp mã số vùng trồng chỉ chiếm khoảng 20-25% tổng diện tích cả nước, một tỷ lệ còn khá thấp. Nhiều vùng nguyên liệu mới được mở nhưng thiếu kiểm soát, đặc biệt là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Lối canh tác “mạnh ai nấy làm”, không tuân thủ quy trình chung khiến chất lượng sầu riêng không đồng đều, tiềm ẩn rủi ro cao cho thương hiệu quốc gia. Thêm vào đó, hệ thống dữ liệu vùng trồng còn thiếu sót; quy chuẩn sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vẫn chưa được đồng bộ giữa các địa phương, ông Hổ nói.
Nhiều lô hàng sầu riêng dù không sử dụng chất cấm vẫn bị phát hiện tồn dư vượt ngưỡng do thiếu kiểm soát các yếu tố đầu vào, ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, bổ sung. Theo ông, điều này cho thấy sự cấp thiết phải chuẩn hóa quy trình canh tác, đặc biệt cho phân khúc chất lượng cao, để bảo đảm đồng bộ kỹ thuật và đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường.
Một bất cập khác đến từ khâu sau thu hoạch. Bà Nguyễn Thái Thanh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Ban Mê Green Farm, cho biết hiện chưa có hướng dẫn chính thức về quy trình xử lý sau thu hoạch đối với sầu riêng. Doanh nghiệp phải “vừa làm vừa dò”, tự tìm kiếm sản phẩm xử lý sao cho phù hợp yêu cầu của nước nhập khẩu. Bà Thanh cũng đề xuất thành lập trung tâm kiểm dịch thực vật ngay tại vùng nguyên liệu lớn như Đắk Lắk, thay vì đưa hàng ra cửa khẩu rồi mới kiểm. “Chi phí vận chuyển tăng, hàng hóa chờ lâu dễ hư hỏng, đó là rủi ro hiện hữu khi thiếu điểm kiểm dịch tại chỗ”, bà Thanh nói.
Ở góc độ địa phương, ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang, thừa nhận rằng công tác quản lý mã số vùng trồng còn nhiều bất cập do thiếu nhân lực, thiếu kinh nghiệm, dẫn tới tình trạng khai báo không trung thực, thậm chí gian lận mã số.
Những hạn chế trên nếu không sớm được khắc phục có thể đẩy ngành sầu riêng vào vòng xoáy tiêu cực: thừa hàng - rớt giá - mất thị trường - và nghiêm trọng hơn cả là đánh mất niềm tin từ đối tác quốc tế. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, sầu riêng là một trong những ngành hàng chủ lực, đang đứng trước cơ hội lớn nhưng cũng đối mặt thách thức không nhỏ.
Rõ ràng, không thể phó mặc cho “vận may thị trường” để giải quyết bài toán tiêu thụ 1,5 triệu tấn sầu riêng mỗi năm. Trong bối cảnh tiêu chuẩn nhập khẩu ngày càng ngặt nghèo, đặc biệt từ Trung Quốc, chỉ có cách xây dựng một hệ sinh thái sầu riêng chuyên nghiệp, từ sản xuất, chế biến đến hậu kiểm, mới giúp ngành hàng này tránh được “vòng xoáy tiêu cực” mà Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã cảnh báo.
Tới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ làm việc trực tiếp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc để thống nhất quy trình kiểm tra, thông quan sầu riêng Việt Nam. Đồng thời, bộ này sẽ ban hành thông tư hướng dẫn về quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói; xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý các vùng trồng và cơ sở đóng gói đã được cấp mã số; chuẩn hóa quy trình sản xuất; kiểm soát chặt vùng trồng nhằm giảm dư lượng hóa chất; triển khai chương trình kiểm soát cadimi từ gốc... Những giải pháp mà bộ đang xúc tiến là cần thiết, nhưng chỉ phát huy hiệu quả khi có sự tham gia đồng bộ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người nông dân - ba mắt xích then chốt của chuỗi giá trị. Một ngành hàng tỉ đô la như sầu riêng xứng đáng được đặt trong chiến lược quốc gia, không chỉ để giữ vững thị trường, tránh khỏi nỗi thấp thỏm mỗi khi vào vụ, mà còn để khẳng định vị thế nông sản Việt trên bản đồ thế giới.
An Nhiên