Trong bối cảnh nhiều địa phương vùng cao vẫn trăn trở tìm kiếm hướng đi cho sinh kế bền vững, câu chuyện của thầy Quàng Văn Hương là một minh chứng sinh động cho tinh thần dám nghĩ, dám làm của người giáo viên nơi miền sơn cước.
Là giáo viên giảng dạy môn Tin học và Công nghệ tại khối Tiểu học, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Sam Kha (tỉnh Sơn La), thầy Hương không chỉ tận tụy trên bục giảng mà còn chủ động tìm hướng phát triển kinh tế từ chính điều kiện thực tiễn của địa phương, góp phần xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững.
Sinh sống tại bản Nậm Tỉa, xã Púng Bánh, từ việc quan sát điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường, thầy mạnh dạn xây dựng mô hình nuôi dúi thương phẩm. Mô hình này từng bước mang lại nguồn thu ổn định cho gia đình, đồng thời mở ra hướng sản xuất mới, giàu triển vọng cho người dân địa phương.
Từ quan sát thực tế đến quyết định khởi nghiệp
Dúi (còn gọi là chuột nứa) là loài động vật gặm nhấm sống trong tự nhiên, thường xuất hiện ở các khu vực rừng núi, nương rẫy. Những năm gần đây, dúi được nhiều địa phương đưa vào chăn nuôi bởi thịt dúi được xem là đặc sản, có giá trị dinh dưỡng cao, được các nhà hàng, quán ăn đặc sản ưa chuộng.
Chính từ việc nhận thấy những lợi thế sẵn có ấy, thầy Quàng Văn Hương đã dần hình thành ý tưởng đưa dúi vào chăn nuôi như một hướng phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện gia đình và đặc thù vùng cao. Khác với nhiều mô hình đòi hỏi vốn lớn hoặc phụ thuộc mạnh vào thị trường, nuôi dúi là lựa chọn tận dụng tối đa nguồn lực tại chỗ.
Thầy Quàng Văn Hương và vợ đều là giáo viên Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Sam Kha (tỉnh Sơn La). Ảnh: NVCC.
“Ở vùng này, tre, nứa, sắn, ngô có quanh năm. Đây đều là thức ăn chính của dúi, bà con vốn đã quen trồng nên không phải đầu tư thêm. Nếu biết tận dụng hợp lý, chi phí chăn nuôi sẽ giảm đi rất nhiều” - thầy Hương chia sẻ.
Từ suy nghĩ đó, thầy bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về tập tính sinh trưởng, khả năng thích nghi và giá trị kinh tế của loài vật nuôi này.
Ở giai đoạn đầu, thầy Hương chỉ mua một số ít dúi giống về nuôi thử nghiệm với tâm thế vừa làm vừa học. Quá trình theo dõi được tiến hành cẩn thận, từ chế độ ăn, môi trường chuồng trại cho đến khả năng sinh trưởng, sinh sản. Sau một thời gian, nhận thấy dúi thích nghi tốt với khí hậu mát mẻ, độ ẩm cao của vùng cao, ít bệnh tật, lớn nhanh và cho hiệu quả kinh tế rõ rệt, thầy quyết định duy trì mô hình, từng bước mở rộng quy mô chăn nuôi.
Bên trong trại nuôi dúi của thầy Hương. Ảnh: NVCC.
Tuy nhiên, con đường khởi nghiệp chưa bao giờ là dễ dàng. Những ngày đầu nuôi dúi, thầy Hương gặp không ít trở ngại, đặc biệt là khâu con giống. Nguồn giống đưa từ nơi khác về chưa kịp thích nghi với điều kiện địa phương, dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Đây cũng là giai đoạn khiến thầy phải liên tục điều chỉnh phương thức chăm sóc và kỹ thuật nuôi.
Từ những thất bại ban đầu, thầy Hương rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng. Theo đó, việc ưu tiên lựa chọn giống tại địa phương hoặc các khu vực có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tương đồng là yếu tố then chốt giúp giảm rủi ro.
Bên cạnh đó, thầy đặc biệt chú trọng khâu vệ sinh chuồng trại, đảm bảo môi trường nuôi khô ráo, sạch sẽ; đồng thời theo dõi sát sức khỏe đàn dúi thông qua biểu hiện ăn uống, hoạt động và phân thải để kịp thời điều chỉnh khẩu phần cũng như cách chăm sóc. Thầy theo dõi qua phân của dúi và nhận thấy nếu cho ăn mía quá nhiều thì chúng rất dễ bị đau bụng, vì vậy hạn chế mía, chủ yếu cho ăn ngô và cây tre
Các kỹ thuật nuôi dúi, từ xây dựng chuồng trại, phối giống đến phòng bệnh, chủ yếu được thầy Hương tự mày mò, tìm hiểu qua internet. Không dừng lại ở đó, thầy còn trực tiếp đến tham quan, trao đổi kinh nghiệm với các hộ nuôi trong xã để tích lũy kiến thức thực tiễn, từng bước hoàn thiện mô hình phù hợp với điều kiện vùng cao.
Hiệu quả kinh tế ổn định, đầu ra thuận lợi
Hiện nay, mỗi năm trang trại nuôi dúi của thầy Quàng Văn Hương xuất bán từ 2-3 đợt, tùy theo tốc độ sinh trưởng của đàn và nhu cầu thị trường. Sau khi trừ các khoản chi phí đầu tư ban đầu, thức ăn và công chăm sóc, mô hình vẫn mang lại lợi nhuận ổn định, trở thành nguồn thu quan trọng của gia đình.
Giá dúi thương phẩm hiện dao động khoảng 100.000 đồng/kg, mức giá được đánh giá là khá ổn định so với nhiều loại vật nuôi khác. Đặc biệt, thương lái thường đến thu mua tận nơi, sau đó phân phối cho các nhà hàng, quán ăn đặc sản tại Sơn La và Hà Nội, giúp người nuôi giảm đáng kể chi phí vận chuyển và áp lực tìm đầu ra.
Theo thầy Hương, so với nuôi gà, vịt hay một số vật nuôi truyền thống, dúi có nhiều ưu thế vượt trội. Thời gian quay vòng vốn nhanh, từ lúc nuôi đến khi xuất bán chỉ mất vài tháng, giúp người chăn nuôi sớm thu hồi vốn và tái đầu tư. Rủi ro dịch bệnh thấp, công chăm sóc không quá nặng nhọc, trong khi thị trường tiêu thụ tương đối ổn định. Mỗi đợt xuất bán, gia đình thầy có thể cung ứng từ vài chục đến hơn một tạ dúi thương phẩm, mang lại khoản thu nhập đáng kể, góp phần cải thiện đời sống và tạo sự chủ động về tài chính.
Dù đảm nhiệm công tác giảng dạy tại trường, thầy Quàng Văn Hương vẫn chủ động sắp xếp thời gian hợp lý để chăm sóc đàn dúi. Mỗi ngày, thầy dậy từ hơn 5 giờ sáng để cho vật nuôi ăn, kiểm tra chuồng trại trước khi đến trường. Buổi tối, sau giờ cơm, thầy tiếp tục dành thời gian vệ sinh chuồng nuôi, bổ sung thức ăn và theo dõi tình trạng sức khỏe của đàn dúi.
Thầy Hương vừa hoàn thành nhiệm vụ trên lớp, vừa chăm sóc cho chuồng trại. Ảnh: NVCC.
Đánh giá về tiềm năng phát triển, thầy Quàng Văn Hương cho rằng nuôi dúi hoàn toàn có thể trở thành một hướng sinh kế mới cho người dân vùng cao nếu được nhân rộng và tổ chức bài bản. Theo thầy, thay vì sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, việc liên kết các hộ nuôi thành tổ hợp tác hoặc hợp tác xã sẽ giúp người dân chủ động hơn về con giống, kỹ thuật và đặc biệt là đầu ra sản phẩm, từng bước nâng cao giá trị kinh tế.
Thực tế tại các xã vùng cao cho thấy sinh kế của người dân lâu nay chủ yếu dựa vào trồng ngô, sắn và một số cây nông nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, mô hình sản xuất này tiềm ẩn nhiều rủi ro do phụ thuộc lớn vào thời tiết, trong khi đầu ra thiếu ổn định, giá cả biến động mạnh theo từng vụ mùa. Hệ quả là thu nhập của nhiều hộ gia đình luôn trong tình trạng bấp bênh, khó tích lũy.
“Nhiều năm, bà con rơi vào cảnh được mùa thì mất giá, được giá thì lại mất mùa. Có năm ngô thu hoạch nhiều nhưng giá thấp, bán không đủ bù chi phí; có năm giá nhích lên thì lại gặp hạn hán, sâu bệnh, sản lượng giảm” - thầy Quàng Văn Hương chia sẻ.
Thu nhập từ trồng trọt vì thế chỉ mang tính thời vụ, mỗi năm thu hoạch một lần, không tạo ra dòng tiền thường xuyên. Không ít hộ gia đình dù cần cù lao động nhưng vẫn quanh quẩn trong khó khăn, chưa tìm được hướng đi phù hợp để cải thiện đời sống.
Trong bối cảnh đó, mô hình nuôi dúi được thầy Hương đánh giá là hướng đi có nhiều ưu thế so với các vật nuôi truyền thống như gà, vịt. Dúi là vật nuôi có giá bán ổn định, cao hơn nhiều so với gia cầm, nhu cầu thị trường lớn. Thời gian nuôi tương đối ngắn, mỗi năm có thể xuất bán nhiều đợt, giúp người nuôi nhanh chóng thu hồi vốn và tạo thu nhập đều đặn.
Bên cạnh đó, chi phí chăn nuôi dúi thấp do tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có như tre, nứa, sắn, ngô – những loại cây vốn đã quen thuộc với bà con vùng cao. Dúi ít dịch bệnh, không đòi hỏi diện tích chuồng trại lớn, phù hợp với điều kiện đất đai và nguồn lực của các hộ gia đình miền núi.
Theo thầy Quàng Văn Hương, nếu mô hình nuôi dúi được nhân rộng và gắn với liên kết sản xuất theo nhóm hoặc hợp tác xã, người dân vùng cao sẽ từng bước giảm phụ thuộc vào trồng ngô, sắn thuần túy. Việc đa dạng hóa sinh kế không chỉ giúp ổn định thu nhập cho từng hộ gia đình mà còn tạo nền tảng lâu dài cho mục tiêu giảm nghèo bền vững tại các xã vùng cao, vùng biên giới.
Trần Trang