Theo Bộ Y tế, trong giai đoạn 2020-2025, công tác thi đua yêu nước của ngành y tế nói chung, các bệnh viện nói riêng luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật cao để nâng chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân...
Làm chủ nhiều kỹ thuật khó về ghép đa tạng: Niềm tự hào của ngành y tế Việt Nam
Hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không ngừng được củng cố và phát triển. Chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh ở tất cả các tuyến chuyên môn kỹ thuật được chú trọng nâng cao. Các bệnh viện tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng thông qua việc áp dụng, cập nhật, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật.
Cùng với đó, mạng lưới bệnh viện vệ tinh được mở rộng; hình thành và phát triển hệ thống khám, chữa bệnh từ xa, kết nối bệnh viện tuyến trên với hơn 1.500 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc, kể cả vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
E kip bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tiến hành ca phẫu thuật ghép đồng thời khối tim - phổi cho người bệnh.
Bộ Y tế cũng cho hay, Việt Nam đã tiếp cận và làm chủ được những kỹ thuật đỉnh cao trong lĩnh vực y khoa (như ghép tạng, ghép đa tạng trên một người bệnh, can thiệp tim bào thai, các kỹ thuật can thiệp tim mạch; hỗ trợ sinh sản (thụ tinh trong ống nghiệm); ghép tế bào gốc; kỹ thuật mổ cột sống có sử dụng Robot; kỹ thuật cấy tim nhân tạo; kỹ thuật sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư…
Trong đó, có nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, do chính các bác sĩ Việt Nam làm thầy, chuyển giao kỹ thuật cho bác sĩ của các nước trên thế giới. Các kỹ thuật này đã và đang tiếp tục được chuyển giao từ các chuyên gia của bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện tuyến trên tới bệnh viện các địa phương trên cả nước.
Điển hình tiên tiến trong lĩnh vực ghép tạng và triển khai các kỹ thuật mới cho thấy trong những năm qua, ngành Y tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong việc ứng dụng các kỹ thuật cao, chuyên sâu trong khám chữa bệnh.
Nổi bật trong số đó là Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế - những đơn vị điển hình tiên tiến tiêu biểu trong lĩnh vực ghép tạng và kỹ thuật y học hiện đại góp phần quan trọng trong cứu sống nhiều bệnh nhân nặng, mang lại cơ hội sống mới cho hàng ngàn người.
Với sự phát triển vượt bậc về trình độ chuyên môn, trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ tâm huyết, ba bệnh viện này là hình mẫu tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước ngành Y tế, góp phần đưa nền y học Việt Nam tiệm cận trình độ khu vực và thế giới.
Đây cũng là minh chứng rõ rệt cho sức mạnh của đổi mới, sáng tạo và nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, thực hiện sứ mệnh "chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân" trong thời đại mới.
Đơn cử, các bác sĩ của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức mới đây thành công trong ghép đồng thời khối tim-phổi đầu tiên tại Việt Nam. Với thành công này, các bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã đưa Việt Nam vào nhóm rất ít quốc gia làm chủ kỹ thuật ghép đa tạng phức tạp nhất thế giới, mở ra cơ hội sống mới cho bệnh nhân suy đa tạng.
Theo TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế), kỳ tích này không chỉ là chiến thắng của riêng Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức mà còn là niềm tự hào của ngành y tế Việt Nam, là minh chứng rằng, y học Việt Nam hoàn toàn có thể chinh phục những đỉnh cao kỹ thuật từng được coi là bất khả thi, góp phần nâng tầm vị thế y học Việt Nam trên trường quốc tế.
"Dù Việt Nam đi sau nhiều năm so với thế giới, nhưng hiện nay chúng ta tự tin sánh ngang với các cường quốc năm châu về ghép tạng. Trình độ của đội ngũ cán bộ, khả năng hiệp đồng, ý chí quyết tâm của các bác sĩ đã làm nên thành công này", Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh Hà Anh Đức nói.
Bệnh viện Trung ương Huế đã lập kỷ lục khi thực hiện ghép tạng thành công cho 8 bệnh nhân chỉ trong vòng 48 giờ.
Hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam có tỷ lệ thành công ngang tầm thế giới
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, Việt Nam có hơn 70 trung tâm hỗ trợ sinh sản, trong đó có 8 đến 9 trung tâm được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong số các trung tâm này, có 2 bệnh viện công lập đạt chất lượng ngang tầm khu vực và quốc tế, bao gồm Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đây là một kết quả rất đáng mừng dù lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam đi sau thế giới rất nhiều năm.
Đến nay, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam đã áp dụng các quy trình quản lý chất lượng quốc tế, bao gồm: Quản lý chất lượng trong các khâu lâm sàng, phòng thí nghiệm và quản trị; ứng dụng công nghệ số để theo dõi, quản lý chất lượng các quy trình; đạt các chứng nhận quốc tế về quản lý chất lượng.
"Lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam dù đi sau thế giới gần 15-20 năm nhưng cũng đã nhanh chóng theo kịp thế giới về chất lượng. Riêng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ thành công của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đạt khoảng 60%, tương đương với khu vực và quốc tế"- Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương Nguyễn Duy Ánh cho biết.
Hay tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVF Mỹ Đức (IVFMD) mới đây đã công bố thành tựu khoa học mới mang tên “Phác đồ Sài Gòn” (Saigon Protocol) - phác đồ điều trị hiếm muộn mới do đội ngũ bác sĩ IVF Mỹ Đức nghiên cứu và phát triển, dựa trên các phát kiến gần đây của thế giới về thụ tinh trong ống nghiệm không kích thích buồng trứng.
Kết quả của phác đồ điều trị mới này đã được đăng tải trên tạp chí quốc tế Fertility & Sterility – tạp chí chuyên ngành chính thức của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ.
“Phác đồ Sài Gòn” cũng được giới thiệu tại Hội nghị khu vực Asia CORE 2025 tổ chức tại Bali (Indonesia), cùng nhiều hội nghị khoa học quốc tế khác, đánh dấu một bước tiến quan trọng của chuyên ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam trên bản đồ hỗ trợ sinh sản toàn cầu.
Nhiều gia đình hiếm muộn có được niềm vui làm cha mẹ khi các thầy thuốc Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật cao trong chuyên ngành hỗ trợ sinh sản.
"Phác đồ Sài Gòn" giúp tiết kiệm chi phí (Giảm khoảng 30% chi phí thuốc kích thích buồng trứng, không phải đông lạnh phôi và chuyển phôi đông lạnh); Không đau do không tiêm thuốc (người vợ tránh được giai đoạn tiêm kích thích buồng trứng, thân thiện hơn và giảm stress khi điều trị); An toàn hơn (Vì không tiêm thuốc nên loại bỏ nguy cơ quá kích buồng trứng); Rút ngắn thời gian điều trị (Chỉ cần một chu kỳ duy nhất cho cả chọc hút và chuyển phôi tươi);
Cùng đó, chất lượng phôi và nội mạc tốt hơn (Nội mạc không chịu tác động của quá nhiều hormone, phôi không bị ảnh hưởng bởi đông lạnh – rã phôi, sức sống của phôi được cải thiện, từ đó nâng cao tỉ lệ thành công).
Phác đồ này phù hợp với các nhóm bệnh nhân: Phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS); Phụ nữ có tiên lượng đáp ứng nhiều (AFC > 15 nang noãn) hoặc AMH ≥ 4 ng/mL; Phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng kháng Gonadotropin (GROS); Phụ nữ có dự trữ buồng trứng bình thường hoặc tốt, mong muốn điều trị thụ tinh trong ống nghiệm một cách đơn giản, thân thiện...
Thái Bình