Trong nhiều thập niên, người trẻ luôn là mục tiêu công kích của thế hệ đi trước. Khi Millennials (sinh năm 1980-1996) bước vào thị trường lao động, họ bị gắn mác “lười biếng” và “ảo tưởng”, tương tự như cách người ta từng gọi Gen X (1965-1980) là “những kẻ vô công rỗi nghề”.
Đến lượt Gen Z (1997-2012), định kiến chuyển thành “thế hệ không thể tuyển dụng được”, những người bị cho là chỉ muốn làm influencer thay vì nhân viên văn phòng.
Nhưng theo nhà báo Jessica Grose chia sẻ trên The New York Times, Gen Z không đáng phải nghe những lời mỉa mai ấy. Bởi quy trình tìm và giữ một công việc hiện nay như “hành trình phi nhân tính và mệt mỏi đến kiệt quệ”.
'Nhà tù kỹ thuật số'
Michael Madowitz, nhà kinh tế trưởng tại Viện Roosevelt (Mỹ), ví thị trường việc làm hiện nay như “vụ kẹt xe khổng lồ”.
“Nếu bạn vừa tốt nghiệp, thời điểm đó giống như cố gắng nhập làn trên một xa lộ mà không ai chịu nhường đường”, ông nói.
Các tập đoàn như Airbnb hay Intuit thậm chí tỏ ra “hứng khởi” khi chia sẻ với The Wall Street Journal về việc tinh gọn nhân sự để tối ưu lợi nhuận ngắn hạn, dù điều đó đồng nghĩa với việc hàng nghìn người trẻ bị chặn ngay từ vòng gửi xe.
Tình trạng này không chỉ do kinh tế trì trệ. Ngay cả trong giai đoạn tăng trưởng, trải nghiệm làm việc của người trẻ cũng ngày càng trở nên khắc nghiệt. Một sinh viên đại học được The Atlantic phỏng vấn từng mô tả thế hệ mình là “những người bị từ chối nhiều nhất trong lịch sử hiện đại”.
AI giờ đây là ‘HR’ đầu tiên mà ứng viên sẽ gặp. Ảnh minh họa: Xiaohongshu.
So với thời nộp hồ sơ giấy, việc ứng tuyển trực tuyến khiến quá trình tìm việc dễ tiếp cận hơn, nhưng cũng khiến tỉ lệ cạnh tranh tăng vọt. Mỗi vị trí giờ đây thu hút hàng trăm ứng viên, và trí tuệ nhân tạo được dùng để sàng lọc vòng đầu.
Richard Yoon, sinh viên kinh tế tại Đại học Columbia (Mỹ), kể rằng bạn bè anh có thể trải qua hàng chục cuộc phỏng vấn, nhưng “19 trong số đó là với bot”. Theo Yoon, việc “tối ưu CV bằng từ khóa để lọt qua AI” giờ là điều bắt buộc. “Cả quy trình này giống một trò chơi điện tử và bạn không biết người thật ở đâu, rất phi nhân tính”, anh nói.
Ngay cả khi đã trúng tuyển, người trẻ vẫn phải đối mặt với một hình thức giám sát mới là “bossware”, phần mềm theo dõi hiệu suất làm việc qua bàn phím, chuột, hoặc chuyển động cơ thể.
“Quản lý kỳ vọng tôi làm 6 công việc trong 40 tiếng mỗi tuần. Phúc lợi thì trung bình, đào tạo gần như không có. Họ theo dõi dữ liệu của tôi để đánh giá năng suất, khiến tôi luôn cảm thấy bị giám sát”, Stevie Stevens (27 tuổi), từng làm việc tại một công ty thiết kế triển lãm ở Ohio (Mỹ), chia sẻ.
Sau khi nghỉ việc và trở thành freelancer, Stevens không còn được hưởng bảo hiểm hay thu nhập ổn định, nhưng cảm thấy hạnh phúc hơn nhờ quyền tự chủ trong công việc.
Theo một cuộc điều tra của The New York Times năm 2022, “bossware” đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành nghề. Hệ thống này thậm chí tính toán thời gian “nhàn rỗi” để khấu trừ lương, mà không hề tính đến những khoảnh khắc nghỉ ngơi, trò chuyện hay suy nghĩ.
Thế hệ kém hạnh phúc nhất
Không khó hiểu khi các số liệu cho thấy mức độ khủng hoảng tinh thần của người trẻ đang tăng mạnh. Một nghiên cứu của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Mỹ (NBER) cho thấy trong thập kỷ qua, số “ngày sức khỏe tinh thần tồi tệ” của người lao động dưới 25 tuổi tăng nhanh chóng.
Hai tác giả David Blanchflower và Alex Bryson nhận thấy người dưới 25 tuổi hiện có mức độ bất hạnh tương đương với nhóm thất nghiệp, điều chưa từng xảy ra trước đây.
Đặc biệt, phụ nữ và người không có bằng đại học là những nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Theo khảo sát của Conference Board năm 2024, mức độ hài lòng trong công việc của người dưới 25 tuổi thấp hơn nhóm trên 55 tuổi tới 15 điểm phần trăm, trong khi tất cả nhóm khác đều tăng.
Thế hệ này coi công việc văn phòng truyền thống là môi trường “phi nhân tính” vì mọi hành vi đều bị giám sát. Ảnh minh họa: Cottonbro/Pexels.
Bryson, đồng tác giả nghiên cứu, đưa ra hai giả thuyết. Thứ nhất, người trẻ ngày nay có kỳ vọng cao hơn vào hạnh phúc nghề nghiệp, đặc biệt trong thời đại mạng xã hội khiến họ liên tục so sánh bản thân. Thứ hai, môi trường làm việc thực sự tồi tệ hơn khi khối lượng công việc ngày càng “nén” trong cùng một khung giờ, còn nhân viên thì mất quyền kiểm soát công việc của chính mình.
Trước bức tranh ảm đạm ấy, nhiều người trẻ chọn lối đi riêng. Cả Yoon và Stevens đều cho rằng làm việc tự do hoặc khởi nghiệp “có vẻ an toàn hơn” so với công sở truyền thống. Yoon cho biết việc chứng kiến người thân bị sa thải sau hàng chục năm gắn bó với một tập đoàn lớn đã khiến anh mất niềm tin vào mô hình “sự nghiệp trọn đời”.
Một số khác tìm lối thoát trong làn sóng công đoàn hóa đang hồi sinh tại Mỹ. Theo Bryson, phong trào này phản ánh mong muốn giành lại quyền kiểm soát, không chỉ về thu nhập mà còn về phẩm giá trong công việc.
Như Phương