Thế lực và thời cơ mới để xây dựng Việt Nam giàu mạnh, văn minh

Thế lực và thời cơ mới để xây dựng Việt Nam giàu mạnh, văn minh
một ngày trướcBài gốc
TS. Nhà báo Nhị Lê.
PV: Thưa TS. Nhà báo Nhị Lê, Việt Nam bước vào năm 2025 với nhiều quyết sách lớn phục vụ cho phát triển và được dư luận, nhân dân hết sức đồng tình. Chẳng hạn như câu chuyện sáp nhập các tỉnh thành hay tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Đây là những thay đổi nổi bật, cho thấy sự điều chỉnh mạnh mẽ để đất nước tiếp tục tiến lên trong quá trình đổi mới. Trong gần 40 năm đổi mới, chắc chắn còn rất nhiều thành tựu khác. Ông có thể chia sẻ đôi điều từ góc độ của mình về vấn đề này không?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Khi nói về những thành tựu của đất nước, chúng ta không thể không nhìn lại chặng đường dài đã qua, đặc biệt là gần 40 năm đổi mới. Trước hết, tròn 80 năm qua, điều vĩ đại bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam chính là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2/9/1945. Đất nước từ bị ngoại xâm đô hộ sang độc lập, dân tộc từ thân phận nô lệ sang tự do. Sáu chữ trong tiêu ngữ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” đã trở thành tuyên ngôn dân tộc trước quốc tế, là kim chỉ nam cho mọi nỗ lực vươn tới hạnh phúc của nhân dân.
Trong 80 năm ấy, đất nước chúng ta đã đi qua những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất quốc gia, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là kỳ tích, có thể nói, phi thường. Trên thế giới, hiếm có một đảng nào như Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt toàn dân tộc làm được như vậy.
Nhìn lại gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã phát triển toàn diện từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến ngoại giao, tạo nên vị thế mới, sức mạnh mới, uy tín mới của đất nước. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, trước khi bước vào đổi mới, thu nhập bình quân đầu người chưa đến 300 USD. Nhưng hiện nay, chúng ta đạt gần 5.000 USD, chính xác là 4.967 USD. Việt Nam trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn của thế giới. Chúng ta cũng là một trong 10 nền kinh tế lớn ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Hệ thống chính trị của chúng ta không ngừng được đổi mới, và đây là một trong những ngọn nguồn dẫn đến những thành công về mặt kinh tế, xã hội trong 40 năm qua. Tôi sẽ nói ở phần sau.
Về chính trị quốc tế, chúng ta thiết lập mối quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đảng ta đã thiết lập quan hệ giao hảo với 200 đảng chính trị, trong đó có nhiều đảng cầm quyền trên toàn thế giới. Chúng ta đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia. Điều đó càng khẳng định vị thế và tầm vóc chính trị của chúng ta trên trường quốc tế to lớn như thế nào.
PV:Chúng ta đang bước vào giai đoạn mới của sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều mục tiêu lớn được đặt ra. Ông nghĩ thế nào?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Chúng ta đã thấy, giai đoạn đại dịch COVID-19, dù kinh tế thế giới biến đổi hết sức phức tạp, dù tình hình chính trị thế giới đặt ra nhiều thách thức, nhưng vị thế, uy tín, đặc biệt là danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố và phát triển. Điều này được bạn bè quốc tế và dư luận quốc tế đánh giá rất cao. Việt Nam là một trong 10 nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục cao trong nhiều năm. Ngân hàng Thế giới đã đánh giá rất rõ điều này vào năm 2024. Đến thời khắc này, kết thúc tháng 7 năm 2025, chúng ta đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP là 7,96%. Có lẽ đây là năm cao nhất trong 15 năm qua. Chúng ta kỳ vọng kết thúc năm 2025, tốc độ tăng trưởng GDP sẽ đạt khoảng 8,5%, và tôi nghĩ có đầy đủ căn cứ và cơ sở để chúng ta đạt được mục tiêu này. Điều này tạo ra những điều kiện tốt nhất về thực lực kinh tế, sức mạnh kinh tế quốc gia để hướng tới thập kỷ thứ ba của thế kỷ XXI.
Cùng với phát triển kinh tế, về mặt chính trị, chúng ta đang có lần tái cấu trúc lại hệ thống chính trị toàn diện và sâu sắc. Từ 63 tỉnh, thành phố qua sắp xếp mang tầm chiến lược, hiện nay có 34 tỉnh, thành phố. Chính quyền địa phương chỉ còn hai cấp. Dư luận đánh giá đây là một cuộc sắp xếp lại giang sơn. Tôi chỉ nói một câu: Chúng ta đang chuẩn bị một không gian phát triển mới, với tâm thế mới, để vươn tới một tầm vóc mới. Song hành với việc tái cấu trúc hệ thống chính trị và tổ chức hành chính, bộ máy tổ chức không ngừng được tinh gọn, bảo đảm tính liên thông, hiện đại và hiệu quả. Tất nhiên, thời gian sẽ còn dài, nhưng những bước chuyển động ban đầu hết sức quan trọng đã tạo điều kiện to lớn và căn bản để đất nước chuẩn bị cất cánh. Lúc này, hơn lúc nào hết, bất cứ ai, tất cả đều phải nhớ: “Tôn tộc đại quy/ Tôn lộc đại nguy/ Tôn tài đại thịnh/ Tôn nịnh đại suy”.
Về đối ngoại và hội nhập quốc tế, chúng ta tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế một cách toàn diện và sâu rộng, với một vị thế đặc biệt. Có thể nói là 40 năm qua, chúng ta đã bước những bước rất dài để nâng cao vị thế trên trường quốc tế như hiện nay. Chúng ta đang chuẩn bị đầy đủ điều kiện và tâm thế để vươn tới hùng cường. Tôi nghĩ hơn lúc nào hết, năm 2025 là cơ hội lớn để Việt Nam bứt phá.
PV: Là một người đã trải qua cả quá trình đổi mới của đất nước, với rất nhiều quyết sách, thay đổi mang tính lịch sử và đúng đắn để tạo điều kiện cho quốc gia phát triển, điều gì khiến ông ấn tượng nhất?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Đó là vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận sau khi đất nước thống nhất năm 1975, chúng ta đã khôn khéo và chuẩn bị thực lực đủ mạnh để phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận đó. Vị thế của Việt Nam đã trở lại với chính mình, mạnh mẽ và ngày càng trưởng thành. Đó là điều lớn nhất về vị thế quốc gia, đã làm nên tâm thế quốc gia phát triển, đã làm nên tâm lý quốc dân không khuất phục, và tiếp tục xứng đáng là một dân tộc đã làm nên những đại sự phi thường trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chuẩn bị bước vào thời kỳ cánh của quốc gia dân tộc.
Thứ hai, không ai không thấy tiêu ngữ mà dưới ngọn cờ của Đảng, nó như một lời tuyên ngôn trước toàn quốc dân đồng bào và trước toàn thế giới: Đó là sáu chữ “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”. Nhân dân tự do suy nghĩ, tự do hành động trên mảnh đất của mình. Đó là thành quả lớn thứ hai mà tôi cảm nhận được. Không có một quyết sách nào của Đảng, của Nhà nước mà không vì nhân dân, không có sự đóng góp của nhân dân. Tôi nhớ năm 1986, Đảng ta nhận được 16 triệu lượt ý kiến góp ý của toàn thể nhân dân đối với những quyết sách đổi mới của mình. Và điều đó đã trở thành nền nếp cho đến ngày hôm nay. Về phía Nhà nước, chúng ta cũng thấy rõ, tất cả những bộ luật và luật lớn nhất của quốc gia dân tộc đều được xin ý kiến nhân dân. Ví dụ, để sửa chữa Bộ luật Đất đai mới đây, Quốc hội đã nhận được 26 triệu lượt ý kiến. Điều đó cho thấy chân trời độc lập quốc gia, dân tộc Việt Nam tự do trên nền tảng độc lập, và quyền tự do của nhân dân, quyền dân chủ của nhân dân là tự nhiên và trách nhiệm được phát huy cao độ.
Năm nay, có một điều kỳ thú, đó là chúng ta kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước, song trùng với kỷ niệm 80 năm sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toàn bộ thành tựu đó đã làm nên vị thế mới, sức mạnh mới, uy tín mới của nước Việt Nam.
PV: Trong công cuộc gần 40 năm đổi mới của chúng ta, theo quan sát của ông, người dân đã được hưởng những thành quả đó như thế nào, ví dụ như về an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách xã hội, công bằng xã hội?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Trên phương diện kinh tế, như tôi đã nói, khởi động công cuộc đổi mới, thu nhập bình quân đầu người một năm chưa quá 300 USD nhưng hiện nay đã đạt gần 5.000 USD. Mức tăng trưởng này là hơn 140 lần, đó là mức sống vật chất được lượng hóa rõ ràng. Nhưng điều quan trọng nhất là đời sống chính trị và tinh thần. Chúng ta thấy không khí dân chủ, tự do ngôn luận của nhân dân được bảo vệ vô hạn. Không có một quyết sách nào hệ trọng đến số phận quốc gia, đến sinh mệnh của nhân dân mà Đảng không xin ý kiến nhân dân, như tôi nói, từ những quyết sách chính trị lớn của Đảng đến những trọng sự liên quan đến quốc kế dân sinh của Nhà nước. Trong cuộc sống, chúng ta thấy không ai bị bỏ lại phía sau cả.
Quyền chính trị và xã hội của mỗi người dân cũng vậy. Những quyết sách mới đây nhất của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương về việc miễn giảm học phí toàn bộ học sinh từ nhà trẻ đến bậc phổ thông là một bước tiến dài. Khi chúng ta đầy đủ thực lực kinh tế thì đây là một quyết định vì nhân dân về mặt chính trị đã tạo nên sự chuyển động về mặt xã hội.
Việt Nam đang mạnh mẽ chuyển mình bước vào kỷ nguyên mới.
PV:Về mặt phát triển văn hóa và con người, ông đánh giá thế nào?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Sau 80 năm, chúng ta có một nền văn hóa mới và văn hóa ngày càng tỏa sáng vị thế thiên khải của nó là soi đường cho quốc dân đi. Thứ nhất là văn hóa chính trị, như tôi nói, tất cả những quyết sách lớn nhất của Đảng, của Nhà nước đều được xin ý kiến toàn dân. Văn hóa trong kinh tế, chúng ta tiên liệu và phòng ngừa tất cả những khó khăn của nền kinh tế thị trường. Nói khái lược, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong đối ngoại… tiếp tục trở thành linh hồn dân tộc và ngày tạc nên gương mặt quốc gia ngày càng rạng rỡ và tỏa sáng.
Đặc biệt là Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ 2 khẳng định văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần quốc gia, sức mạnh mềm của dân tộc. Điều tôi thật sự rung cảm là, văn hóa đã và ngày càng xứng đáng là rường cột, linh hồn của toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và gương mặt đất nước. Văn hóa dựng nước hóa thân trong văn hóa giữ nước làm nên sự trường tồn của dân tộc suốt mấy nghìn năm qua. Văn hóa tiếp tục dẫn dắt dân tộc phát triển và thật sự xứng đáng là một nhân tố khắc sâu bản sắc, tạo nên sức mạnh, tôn vinh vị thế và tỏa sáng danh dự của dân tộc và Việt Nam ngày càng xứng đáng là một dân tộc văn hóa.
PV: Đất nước đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, bên cạnh những thuận lợi chắc chắn cũng sẽ có những thách thức. Ở góc độ của ông, những thách thức này là gì và lời giải thế nào để đất nước chúng ta cất cánh?
TS. Nhà báo Nhị Lê: Không có cuộc cách mạng nào và không có con đường nào lại không gặp khó khăn. Ngay từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), Đảng ta tiên liệu, nhận diện và hóa giải mang tầm chiến lược 4 nguy cơ. Ở góc độ này, khi nói về nguy cơ, làm tôi nhớ đến lời răn dạy của Lê Quý Đôn cách đây 250 năm về 5 nguy cơ làm mất nước: Trẻ không kính già; trò không trọng thầy; binh kiêu tướng thoái; tham nhũng tràn lan; sĩ phu ngoảnh mặt. Có thể xem đó là những "giặc nội xâm". 40 năm qua là cuộc thử thách chúng ta chủ động hóa giải những nguy cơ đó đang làm đất nước suy yếu đó. Đấy là những bước gập ghềnh, thậm chí nguy hiểm nhất mà chúng ta đang phải đối diện và phải thành công.
Song hành với việc hóa giải những nguy cơ, những thách thức từ bên trong, chúng ta cần chủ động và tích cực nhận diện, hóa giải một cách thành công hơn nữa đối với những thách thức từ bên ngoài, về địa chính trị, về địa kinh tế, về địa văn hóa trong quan hệ quốc tế. Sự thành bại của kỷ nguyên mới đồng thời tùy thuộc vào việc nhận diện và hóa giải tất cả những nguy cơ, thách thức phản phát triển đó.
Tôi kỳ vọng dân tộc ta, với 20 triệu đồng bào đã làm nên kỳ tích Cách mạng Tháng Tám, “Nước Việt Nam từ trong máu lửa. Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” suốt 80 năm qua. Và, trong thế giới dù bất ổn và bất bình thường hiện nay, với thế lực mới và thời cơ mới, hơn 100 triệu đồng bào ta nhất định làm nên kỳ tích trong kỷ nguyên mới Việt Nam phú cường trong thế kỷ XXI.
Xin cảm ơn TS. Nhà báo Nhị Lê!
Phan Hoạt (Thực hiện)
Nguồn CAND : https://cand.com.vn/van-de-hom-nay-thoi-su/the-luc-va-thoi-co-moi-de-xay-dung-viet-nam-giau-manh-van-minh-i779916/