Công nghệ không chỉ hỗ trợ phân tích dữ liệu, mà còn tái tạo môi trường thi đấu, giúp vận động viên cải thiện kỹ năng và giảm thiểu chấn thương. Ảnh minh họa: INT.
Tuy nhiên, thể thao Việt Nam vẫn chưa theo kịp xu thế toàn cầu, khiến không ít môn mũi nhọn dậm chân tại chỗ, thậm chí có dấu hiệu thụt lùi.
Chậm chân
Ở các quốc gia thể thao phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hay thậm chí một số nước Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, ứng dụng khoa học công nghệ trong huấn luyện và thi đấu đã trở thành nền tảng không thể thiếu.
Võ sĩ wushu nổi tiếng Phạm Quốc Khánh từng chia sẻ: Giai đoạn cuối sự nghiệp, tôi bị chấn thương nhưng không có thiết bị nào phân tích để biết đâu là nguyên nhân, phải tập lại từ đầu. Trong khi đối thủ Trung Quốc có cả hệ thống phục hồi thể lực bằng cryotherapy, đo áp lực lên khớp gối, ngón chân… mỗi buổi tập. Tương tự, các đội karate và taekwondo Việt Nam gần như không được hỗ trợ các công nghệ chấm điểm ảo hay mô phỏng chiến đấu bằng thực tế ảo - vốn đã phổ biến ở các trung tâm huấn luyện Hàn Quốc và Nhật Bản.
Từ phân tích dữ liệu đối thủ, theo dõi hiệu suất vận động viên bằng cảm biến sinh học, đến việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong mô phỏng chiến thuật, tất cả đều nhằm mục tiêu tối ưu hóa thành tích.
Trong khi đó, thể thao Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của huấn luyện viên, sự nỗ lực tự thân của vận động viên và phương pháp huấn luyện truyền thống. Điều này dẫn đến một thực tế đáng lo ngại: Nhiều đội tuyển, kể cả các môn từng là mũi nhọn như điền kinh, bơi, bắn súng, cử tạ hay thể dục dụng cụ, đang chững lại so với chính mình trong quá khứ và tụt hậu so với khu vực.
Chuyên gia thể thao Nguyễn Hồng Minh - nguyên Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao (Tổng cục TDTT, nay là Cục TDTT - Bộ VH-TT&DL), nhận định: “Chúng ta vẫn đang làm thể thao theo cách cũ, thiếu dữ liệu, thiếu công nghệ. Trong thời đại mà các quốc gia đều dùng khoa học để tăng tốc, thì việc Việt Nam chưa đầu tư bài bản cho lĩnh vực này khiến sự tụt hậu là khó tránh khỏi”.
Ông Minh cũng chỉ ra rằng, nhiều chương trình huấn luyện của các đội tuyển vẫn phụ thuộc cảm tính, thiếu chỉ số đo lường, dữ liệu về chu kỳ sinh học hay hiệu suất tối ưu của vận động viên.
“Điều này khiến chúng ta không thể biết được khi nào vận động viên đạt trạng thái sung mãn nhất, hoặc lý do chấn thương tái phát là gì. Trong khi các đội thể thao mạnh trên thế giới đều dùng AI để kiểm soát từng thông số sinh học của vận động viên theo thời gian thực”, ông Minh nêu quan điểm.
Một thực tế đáng quan ngại khác là sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng công nghệ tại các trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia. Theo khảo sát của Cục TDTT vào cuối năm 2024, trong số hơn 20 trung tâm huấn luyện thể thao trọng điểm, chỉ có duy nhất Trung tâm HLTTQG Hà Nội có một phòng phân tích video và dữ liệu cơ bản, còn lại thiếu hệ thống theo dõi thể lực tự động, không có phần mềm đánh giá hiệu suất, càng không có hệ thống AI dự báo phong độ hay hỗ trợ chiến thuật. Trong khi đó, ở Nhật Bản, tất cả vận động viên Olympic đều được gắn cảm biến theo dõi sức khỏe và hiệu suất hằng ngày, dữ liệu được phân tích bởi đội ngũ khoa học thể thao, từ đó đưa ra giáo án cá nhân hóa.
Bên cạnh đó, sự thiếu kết nối giữa ngành thể thao và các viện nghiên cứu công nghệ, các trường đại học chuyên ngành như Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội… cũng khiến các thành tựu khoa học không thể áp dụng vào thực tế huấn luyện.
Dù Việt Nam có không ít chuyên gia AI, kỹ sư dữ liệu nhưng gần như chưa có mô hình phối hợp nào giữa họ và các đội tuyển thể thao quốc gia. Trong khi đó, các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc đã lập hẳn các trung tâm nghiên cứu thể thao tích hợp AI, Big Data (dữ liệu lớn) và sinh học vận động, gắn liền giữa học thuật và thực tiễn thi đấu.
Trong các môn đối kháng như bóng đá, võ thuật, hay các môn đòi hỏi tính chiến thuật như cầu lông, bóng bàn, thiếu phân tích dữ liệu đối thủ đồng nghĩa với việc vào sân trong thế bị động. Hậu quả của việc thiếu công nghệ không chỉ dừng lại ở thành tích. Nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe, chu kỳ hồi phục và tuổi nghề của vận động viên.
Một cựu tuyển thủ điền kinh của Việt Nam chia sẻ: Hồi tôi thi đấu, mọi bài tập đều phải tự cảm nhận, chấn thương xảy ra cũng không ai biết nguyên nhân sâu xa. Giờ đọc báo thấy vận động viên nước ngoài chỉ cần đeo vòng tay là biết khi nào cơ bắp cần nghỉ hay nạp năng lượng, thấy tiếc cho thể thao mình.
Một thực tế dễ thấy khi so sánh với các nền thể thao trong khu vực là sự lạc hậu đáng báo động về cách thức tổ chức huấn luyện, giám sát phong độ và đánh giá thành tích của vận động viên Việt Nam.
Trong khi các quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu thể thao quốc gia (National Sports Data Hub), cho phép theo dõi hiệu suất thi đấu và huấn luyện của từng vận động viên từ tuyến năng khiếu đến tuyển quốc gia, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống nào tương tự.
Dữ liệu vận động viên vẫn chủ yếu nằm trong các bảng thống kê thủ công, hoặc lưu trữ rải rác ở từng bộ môn, liên đoàn gây khó khăn trong quản lý và phân tích.
Tại SEA Games 32 (Campuchia, 2023), nhiều đội tuyển Việt Nam cho thấy sự lúng túng trong việc điều chỉnh chiến thuật thi đấu. Lý do chính là thiếu công cụ hỗ trợ phân tích đối thủ và hiệu suất thi đấu theo thời gian thực.
Trong khi đó, đội tuyển cầu lông Thái Lan sử dụng phần mềm HawkEye kết hợp camera AI để phân tích vị trí đặt cầu, đường cầu trung bình, khoảng di chuyển của đối thủ và hiệu suất phát cầu, từ đó đưa ra điều chỉnh chiến thuật ngay trong trận.
Đội tuyển bóng bàn Singapore thì sử dụng công nghệ tự động ghi hình và phân tích cú đánh của vận động viên bằng phần mềm do chính Đại học Công nghệ Nanyang phát triển.
Điền kinh - một trong những môn mũi nhọn, Việt Nam vẫn tập luyện theo giáo án cũ, chưa có thiết bị phân tích thông số bước chạy, nhịp tim, nồng độ lactate, chỉ số VO2 max… vốn là những dữ liệu cực kỳ quan trọng để đánh giá thể trạng và khả năng phục hồi.
Trong khi đó, điền kinh Philippines hay Indonesia đã trang bị vòng cảm biến sinh học, hệ thống GPS đo bước chạy, ứng dụng AI để điều chỉnh kỹ thuật và nhịp sinh học của vận động viên. Việc thiếu dữ liệu khiến các huấn luyện viên Việt Nam không thể xác định được thời điểm đạt đỉnh của vận động viên, hoặc điều chỉnh bài tập để phòng ngừa chấn thương dài hạn.
Ngay cả trong bóng đá - môn thể thao được đầu tư mạnh nhất, sự tụt hậu về công nghệ cũng bộc lộ rõ. Liên đoàn Bóng đá Việt Nam dù đã có những bước tiến với thiết bị GPS và phần mềm Catapult - theo dõi, đánh giá và cải thiện hiệu suất thi đấu, theo dõi chuyển động và phân tích video, nhưng chỉ mới triển khai ở cấp độ đội tuyển quốc gia nam và nữ.
Các đội trẻ U17, U19, hoặc các câu lạc bộ ở V-League vẫn rất ít đội trang bị công nghệ tương tự. Trong khi đó, bóng đá Nhật Bản áp dụng mô hình phân tích dữ liệu từ giải trẻ, gắn chip GPS từ lứa U13 và lưu toàn bộ dữ liệu chuyển động, hiệu suất, tốc độ, điểm số kỹ thuật để phục vụ quá trình huấn luyện cá nhân hóa.
Đội tuyển bắn súng Việt Nam sẽ được trang bị công nghệ AI từ tháng 7/2025. Ảnh: INT.
Kỳ vọng vào tương lai
Ở các quốc gia tiên tiến, công nghệ giúp rút ngắn quá trình tuyển chọn nhờ vào AI nhận diện chuyển động, phân tích sinh học, các chỉ số di truyền tiềm năng thể thao. Ví dụ, ở Australia, học sinh từ lớp 4 đã được kiểm tra bộ chỉ số thể thao qua cảm biến và dữ liệu gen để định hướng vào các môn phù hợp.
Trong khi đó, Việt Nam vẫn chủ yếu tuyển chọn theo cảm tính, phụ thuộc vào kinh nghiệm của huấn luyện viên địa phương. Điều này khiến không ít tài năng bị bỏ sót hoặc được huấn luyện sai hướng. Nhiều chuyên gia cho rằng nếu tiếp tục lãng quên vai trò của công nghệ, thể thao Việt Nam sẽ bị bỏ xa không chỉ ở đấu trường châu lục mà còn ngay tại Đông Nam Á.
Thế nên, để thể thao Việt Nam không bị bỏ lại phía sau, cần một chiến lược tổng thể và dài hơi. Chúng ta không thể trông chờ vào một vài thiết bị, dự án lẻ tẻ. Cần có trung tâm nghiên cứu công nghệ thể thao cấp quốc gia, kết nối các nhà khoa học, chuyên gia dữ liệu, bác sĩ thể thao và huấn luyện viên để hình thành một hệ sinh thái hỗ trợ vận động viên toàn diện.
Trong đó, vai trò của dữ liệu trong quản trị thể thao hiện đại không chỉ giúp nâng cao thành tích, dữ liệu còn giúp phát hiện tài năng sớm, giảm chấn thương, kéo dài tuổi nghề và cải thiện hiệu quả đầu tư.
Hướng đi cho thể thao Việt Nam không thể là việc “sắm vài thiết bị thông minh” mà cần thay đổi tư duy từ gốc. Trước hết, phải xem công nghệ là yếu tố cấu thành thành công, chứ không phải thứ trang trí. Thứ hai, cần có cơ chế tài chính mở để khuyến khích xã hội hóa đầu tư công nghệ vào thể thao.
Các doanh nghiệp công nghệ lớn có thể được mời tham gia phát triển nền tảng dữ liệu thể thao quốc gia. Thứ ba, phải tăng cường đào tạo đội ngũ nhân lực mới như chuyên gia dữ liệu thể thao, kỹ sư AI chuyên ngành vận động học, bác sĩ thể thao, và đưa họ về làm việc tại các trung tâm huấn luyện.
Cuối tháng 6/2025, Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Hoàng Đạo Cương đã chủ trì buổi làm việc với Cục TDTT, nghe báo cáo về Thỏa thuận hợp tác với Công ty Cổ phần Công nghệ DreaMaX trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác huấn luyện thể thao thành tích cao.
“Việc triển khai hợp tác này là bước đi phù hợp, cần thiết trong bối cảnh thể thao thành tích cao đang bước vào giai đoạn yêu cầu đổi mới toàn diện. Ứng dụng AI không chỉ là xu thế, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu để thể thao Việt Nam tiệm cận trình độ quốc tế” - Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương nhấn mạnh.
Thông tin từ Cục TDTT cho biết, sau khi ký kết thỏa thuận hợp tác, chương trình sẽ tập trung ứng dụng AI vào 4 môn thể thao trọng điểm: Bắn súng, bắn cung, taekwondo và boxing. Công nghệ AI sẽ hỗ trợ phân tích dữ liệu vận động viên ở nhiều khía cạnh như đường bắn, tuyến bắn, độ trụ, khả năng phòng chống chấn thương, độ chính xác đòn đánh…
Việc ứng dụng công nghệ này sẽ giúp xử lý khối lượng dữ liệu lớn từ quá trình đào tạo, tập luyện và thi đấu của vận động viên. Các chỉ số được lượng hóa, so sánh với dữ liệu tham chiếu quốc tế, giúp huấn luyện viên và vận động viên có cơ sở khoa học để xây dựng giáo án, điều chỉnh phương pháp huấn luyện và nâng cao hiệu quả thi đấu.
Hơn 20 năm trước, thể thao Việt Nam từng bước ra đấu trường châu lục bằng ý chí và lòng quyết tâm. Nhưng trong thời đại công nghệ, những yếu tố đó là chưa đủ. Thể thao Việt Nam đang đứng trước một ngã ba quan trọng. Một bên là con đường quen thuộc - tiếp tục vận hành theo kiểu cũ, với niềm tin vào sự nỗ lực và tài năng cá nhân, nhưng đầy rủi ro tụt hậu.
Một bên là con đường hiện đại - áp dụng công nghệ, khai thác sức mạnh dữ liệu và trí tuệ nhân tạo để tái cấu trúc toàn bộ hệ thống. Trong bối cảnh thể thao thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ, lựa chọn của thể thao Việt Nam sẽ quyết định vị thế trong tương lai không xa.
Trong thời gian tới, thể thao Việt Nam cần ứng dụng công nghệ trong việc tính toán và quản lý khẩu phần ăn. Nhiều ứng dụng di động hiện nay cho phép người dùng nhập thông tin cá nhân, mục tiêu thể chất, sau đó gợi ý và theo dõi lượng calo, thành phần dinh dưỡng. Lợi ích của các công nghệ là tính toán một cách chuẩn xác lượng calo tiêu thụ - nạp vào hằng ngày một cách tự động, chi tiết, chính xác thay vì ghi chép thủ công. Tuy nhiên, hạn chế là một số ứng dụng yêu cầu trả phí, thiết bị đeo đắt tiền nên vận động viên khó tiếp cận - Ông Phạm Hoàng Tùng, Giám đốc Trung tâm huấn luyện vận động viên trẻ quốc gia.
Hà Phương