Trong số đó, có 5 bảo vật Phật giáo, bao gồm: Sáu pho tượng Kim Cương chùa Đọi Sơn (1118-1121), bia chùa Linh Xứng (1126), khánh đá chùa Điều (1692), bộ tượng Tam Tổ Trúc Lâm ở chùa Vĩnh Nghiêm (thế kỷ XIX), đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc ở An Giang (thế kỷ I-III).
Những pho tượng Kim Cương chùa Đọi Sơn
Chùa Đọi Sơn tựa lưng vào núi Ðiệp ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Chùa được xây dựng từ năm 1118, đến năm 1121 thì hoàn thành. Vua Lý Nhân Tông đích thân đến chùa Đọi để khánh thành và ban tên Sùng Thiện Diên Linh cho bảo tháp tôn trí tại chùa. Bia Sùng Thiện Diên Linh cho biết bảo tháp được xây dựng bằng đá, cao 13 tầng, mở 40 cửa hóng gió, vách chạm ổ rồng, trên xà có treo chuông đồng. Tầng trên cùng đặt hộp vàng tôn thờ xá-lợi. Nơi an vị các vị hộ pháp, được ghi nhận rằng: “tầng dưới chia tám tướng khôi ngô, đứng hộ vệ, có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai”.
Tượng Kim Cương chùa Đọi Sơn (Hà Nam)
Tuy nhiên, đầu thế kỷ XV, giặc Minh tàn phá, chùa Đọi bị triệt giải. Nhưng may mắn, bia Sùng Thiện Diên Linh và 6 pho tượng Kim Cương còn sót lại và được nhân dân trong vùng giữ gìn.
Các tượng Kim Cương được tạc bằng sa thạch nguyên khối với dáng võ quan dũng mãnh. Tạo hình các tượng Kim Cương với đầu đội mũ có chỏm tròn trên đỉnh, bó sát, ôm lấy hai bên mang tai cho đến tận cằm. Thân tượng vận giáp trụ, xuống tận đầu gối, ngực áo có hai xoáy lớn, vai có hổ phù, trước bụng có dải giáp hình chiếc khánh. Thân áo điểm những bông hoa cúc chạm nổi nhiều cánh. Chân đi hài cao cổ mũi hơi cong. Do những biến động của lịch sử, các pho tượng Kim Cương tại chùa Đọi Sơn đã không còn nguyên vẹn, một số bị mất đầu hoặc sứt gãy, nhưng vẫn thể hiện được đặc trưng nghệ thuật thời Lý.
Bia chùa Linh Xứng
Bia Linh Xứng, được chế tác bằng đá, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126), tại chùa Linh Xứng, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Đây là một trong những tấm bia quý hiếm thời Lý còn nguyên vẹn đến ngày nay. Bia cao 134cm, rộng 70cm. Trán bia hình bán nguyệt khắc chữ Hán: “Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi ký” (bia chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng).
Bia được dựng trên thân rùa. Thân bia khắc chìm minh văn chữ Hán, nội dung nói về sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở nước ta, làm tượng Phật để truyền đạo thống, dựng tháp miếu để có chỗ quy tâm, những nơi danh lam thắng cảnh đều dựng cảnh già-lam.
Phần tiếp theo nội dung của văn bia nói về quá trình xây chùa Linh Xứng, sự góp công của các tín đồ Phật giáo và nhân dân quanh vùng, đặc biệt là công lao của Thái sư Lý Thường Kiệt với dân tộc trong việc đánh Tống (1075-1077) và bình Chiêm (1069), cũng như với đạo pháp khi tìm đất, công đức tiền của để xây dựng chùa Linh Xứng.
Bia Linh Xứng không chỉ minh chứng cho sự hưng thịnh của Phật giáo dưới triều Lý mà còn lưu giữ tư liệu về Lý Thường Kiệt. Theo văn bia, sau hơn bốn chục năm ở triều đình, đến năm 1082, Lý Thường Kiệt được biệt phái vào cai quản trấn Thanh Hóa để bảo vệ vùng đất phên giậu phía Nam của Tổ quốc. Lúc này ông đã 63 tuổi. Đại sư Hải Chiếu Pháp Bảo đã từng chứng kiến tường tận việc ông làm cho nên mới cho khắc bia để lưu lại hậu thế.
Đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc
Đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc, niên đại vào khoảng thế kỷ I-III. Đây là hiện vật độc bản thuộc giai đoạn sớm của văn hóa Óc Eo. Tác phẩm chạm khắc nổi hình đầu Phật trên một khối đá granite lớn. Với nghệ thuật chạm khắc thô, đơn giản, mộc mạc, chân thực, trực quan sinh động trên chất liệu bản địa chính là điểm khởi đầu cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật điêu khắc đá của Phù Nam.
Khánh đá chùa Điều
Chiếc khánh đá chùa Điều, ở xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam có niên đại năm Chính Hòa thứ 13 (1692), được xác định là chiếc khánh đá cổ nhất cả nước hiện còn. Khánh đá chùa Điều có hình cánh dơi, nặng khoảng 350kg, chiều cao nhất 95cm, chiều rộng nhất 195cm, dày 7cm.
Khánh đá chùa Điều (Hà Nam)
Khánh đá chùa Điều được trang trí ở cả 2 mặt. Giữa đỉnh khánh khắc hình lá đề, bên trong lá đề có vòng tròn như mặt trời. Vòng tròn có chấm to ở giữa, xung quanh là các đường cong cách quãng, như mặt trời tỏa ánh hào quang. Diềm lá đề tạo các đao to, nhỏ, cao, thấp không đều nhau, hướng ngược lên, trái, phải hai bên mỗi bên tạo một con rồng chầu, đầu có mào, mắt to, lồi, miệng rộng, lưỡi ngậm ngọc, cằm có râu, thân cuộn ba khúc, chân dài có 3 ngón.
Mặt trước của khánh khắc chìm hai chữ “Cửu thiên” bên phải. Bên trái khắc chìm hai chữ “Ứng nguyên”. Ở giữa có 4 chữ Hán “Bảo khánh Điều tự” (Khánh quý chùa Điều) được khắc nổi trong lòng hình lá đề biến thể trên nền của tám bông hoa cúc mãn khai, trên, dưới, trái, phải đối xứng. Hai bên khánh khắc mỗi bên một con phượng múa, cùng chầu lên trên, hướng vào lá đề ở đỉnh khánh. Dưới chân phượng, bên phải có chữ “xuân”, bên trái chữ “hạ” đều khắc trong lòng lá đề biến thể.
Mặt sau của khánh có hai hàng chữ Hán lớn. Hàng trên khắc 6 chữ “Lôi thanh phổ hóa thiên tôn” (như tiếng sấm báo hiệu, cảm hóa tận trời cao). Hàng dưới khắc 10 chữ, “Niên niên tăng phú quý. Nhật nhật thọ vinh hoa” (năm lại năm tăng thêm phú quý, ngày nối ngày sống vinh hoa). Hai bên khánh khắc đôi rồng, mắt lồi to, miệng mở rộng, chân con nọ như quắp lấy miệng con kia. Thân rồng được tạo bằng một đường cốt ở giữa, xung quanh là hai hàng chấm nhỏ. Đuôi rồng uốn ngược tạo thế rồng giáng. Chân rồng có bốn móng, bờm râu dữ tợn, hai bên đuôi tạo đao lớn nhỏ, cao thấp. Dưới chân rồng, bên phải khắc chữ “thu”, bên trái khắc chữ “đông”, đều nằm trong lòng chiếc lá đề cách điệu.
Lòng khánh tạo khung hình lục giác, khắc 36 dòng chữ Hán. Nội dung là một bài minh nêu rõ lý do, mục đích, ý nghĩa của việc tạo khánh, ca ngợi Phật pháp, cảnh chùa, ghi nhớ tấm lòng công đức, nhắn nhủ niềm tin hướng về Đức Phật từ bi quảng đại, cầu nguyện đất nước cùng với Phật pháp mãi trường tồn. Phần dưới ghi phương danh một số tín chủ tiến cúng và người soạn văn chữ khắc trên khánh.
Bộ tượng Tam Tổ Trúc Lâm của chùa Vĩnh Nghiêm.
Bộ tượng Tam Tổ Trúc Lâm của chùa Vĩnh Nghiêm ở tỉnh Bắc Giang gồm 3 pho tượng: Đệ nhất Tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông, Đệ nhị Tổ Pháp Loa, Đệ tam Tổ Huyền Quang.
Trong đó tượng Tổ Trần Nhân Tông cao 85cm, nặng khoảng 60kg được tạc liền khối theo kiểu thiền tọa trên bệ gỗ vuông, thân khoác y cửu điều. Tượng có thân hình, khuôn mặt cân đối, hài hòa, sóng mũi thẳng, mắt hơi nhắm, miệng mỉm cười, tai to dài, đầu cạo tóc.
Bộ tượng Tam Tổ Trúc Lâm tôn trí tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)
Tượng Tổ Pháp Loa và tượng Tổ Huyền Quang cao 83cm, nặng khoảng 65kg được tạc liền khối, gồm tượng và bệ. Tượng Tổ Pháp Loa mang dáng vẻ của một nhà sư, dáng người thon cao, đầu cạo tóc, khuôn mặt cân đối, mũi cao, tai dài, thần thái từ bi, phúc hậu. Tượng ngồi trong tư thế tọa thiền, hai chân xếp bằng, hai tay kết ấn để trên đùi. Tượng Tổ Huyền Quang được tạc trong tư thế ngồi ngay ngắn trên bệ, gương mặt góc cạnh, mũi cao, tai to, hai chân xếp bằng, tay trái đặt trên đùi trái, tay phải cầm cuốn sách.
Theo các chuyên gia, bộ tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại chùa Vĩnh Nghiêm được tạc bằng gỗ mít hiện còn nguyên vẹn, không trùng lặp với bất kỳ pho tượng nào khác về cả hình tướng, tư thế, pháp phục, họa tiết trang trí, được sơn màu nâu đỏ thẫm và màu vàng. Đây là hiện vật gốc độc bản và còn nguyên vẹn, là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một khuynh hướng, phong cách trong thế kỷ XIX.
Chu Minh Khôi/Báo Giác Ngộ