Nghị quyết 68 thúc đẩy hơn nữa quy trình chuyển đổi từ khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp sinh thái. Ảnh: Lê Toàn.
Cơ hội rộng mở
Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân vừa được Bộ Chính trị ban hành và tiếp đó là nhiều chính sách cụ thể hóa nghị quyết này của Chính phủ, Quốc hội không chỉ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, mở ra hành lang pháp lý thông thoáng, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ và bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản công nghiệp và khu công nghiệp sinh thái.
Nghị quyết 68 đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, tăng gấp đôi so với hiện nay, trong đó ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Điều này nghĩa là, nhóm các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng là nhóm khách hàng quan trọng, bên cạnh nhóm khách hàng FDI truyền thống của các khu công nghiệp. Với tầm nhìn trên, bất động sản công nghiệp đóng vai trò như một hạ tầng thiết yếu của sản xuất cũng sẽ phải thay đổi và phát triển mạnh mẽ.
Theo đánh giá của ông Trương Khắc Nguyên Minh - Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Prodezi Long An, Nghị quyết 68 nhấn mạnh việc cải thiện khả năng tiếp cận đất đai và hạ tầng cho doanh nghiệp trên thị trường bất động sản công nghiệp, từ đó nâng cao giá trị sử dụng đất.
Các địa phương được yêu cầu dành quỹ đất tối thiểu 20 ha cho mỗi khu, cụm công nghiệp hoặc 5% tổng quỹ đất đã đầu tư kết cấu hạ tầng để hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê.
Đồng thời, cho phép sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ… với điều kiện dành một phần quỹ đất đã đầu tư cho các doanh nghiệp nêu trên thuê.
Cùng góc nhìn, theo đánh giá của Tập đoàn VinaCapital, một trong những tác động tích cực trực tiếp của Nghị quyết 68 là việc các địa phương sẽ phải dành quỹ đất riêng, bao gồm một phần diện tích trong mỗi khu công nghiệp, cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các start-up đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp tư nhân sẽ được hưởng mức giảm 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu tiên của hợp đồng thuê đất.
Nghị quyết cũng thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển đổi số và sử dụng cơ sở hạ tầng nghiên cứu của Nhà nước với mức phí hợp lý. Các chi phí đầu tư cho R&D, cũng như đổi mới sáng tạo, được khấu trừ thuế lên tới 200%.
Đến năm 2030, cả nước dự kiến có 221 khu công nghiệp quy hoạch mới với tổng diện tích hơn 73.000 ha.
“Sự ra đời của Nghị quyết 68 đã khẳng định định hướng phát triển bền vững thông qua các ưu đãi tài chính, thuế và chính sách hỗ trợ hạ tầng cho khu công nghiệp sinh thái”, ông Minh nói và chia sẻ thêm, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của cuộc chuyển đổi toàn diện trong mô hình phát triển công nghiệp. Những cơ chế, chính sách được đưa ra trong Nghị quyết 68 là cú huých chiến lược cho lĩnh vực này, thúc đẩy hơn nữa quy trình chuyển đổi từ khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp sinh thái, cũng là phù hợp với xu hướng bền vững toàn cầu trong chu kỳ kinh tế mới.
Kỳ vọng hình thành các “vùng công nghiệp mới”
Liên Chi hội Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIREA) nhận định, việc triển khai đồng bộ Nghị quyết 68 cùng 3 nghị quyết quan trọng khác gồm Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế và Nghị quyết 66 về hoàn thiện pháp luật trong kỷ nguyên mới, đã tạo thành một “Bộ tứ chiến lược” định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Số liệu từ Niên giám Bất động sản công nghiệp Việt Nam - Quy hoạch đến năm 2030 cho thấy, hệ thống khu kinh tế hiện bao gồm 19 khu kinh tế ven biển và 25 khu kinh tế cửa khẩu, phân bố rộng khắp các vùng kinh tế trọng điểm.
Đến năm 2030, cả nước dự kiến có 221 khu công nghiệp quy hoạch mới với tổng diện tích hơn 73.000 ha, 72 khu công nghiệp mở rộng, 23 khu công nghiệp điều chỉnh quy hoạch và 299 khu công nghiệp thành lập mới khi đủ điều kiện pháp lý.
“Đây là tiềm năng phát triển to lớn, đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới, đồng bộ từ 4 nghị quyết chiến lược, đặc biệt trong công tác xúc tiến đầu tư bền vững”, VIREA nhấn mạnh.
Từ định hướng của Nghị quyết 68, VIREA đề xuất mô hình hợp tác đa chủ thể trong phát triển khu công nghiệp, với sự tham gia của các nhà phát triển hạ tầng tư nhân, doanh nghiệp đầu tư thứ cấp, chính quyền địa phương và tổ chức tư vấn quốc tế.
Mô hình này hướng đến chia sẻ nguồn lực, phân bổ rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư, phù hợp với chủ trương thúc đẩy các hình thức hợp tác công - tư (PPP), “lãnh đạo công - quản trị tư”, “đầu tư tư - sử dụng công”…
Đặc biệt, Nghị quyết 68 nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hóa nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trên cơ sở đó, VIREA kiến nghị thành lập Quỹ đầu tư phát triển khu công nghiệp bền vững với đặc điểm: Huy động vốn từ nhiều nguồn, có cơ chế ưu đãi cho các dự án khu công nghiệp xanh - tuần hoàn và áp dụng tiêu chuẩn ESG trong đánh giá, lựa chọn dự án.
Việc khai thác hiệu quả các chính sách tín dụng xanh, kết hợp hỗ trợ lãi suất và ưu đãi cho doanh nghiệp triển khai các dự án tuần hoàn, áp dụng ESG… được xem là bước đi cần thiết để hiện thực hóa mục tiêu phát triển công nghiệp bền vững trong giai đoạn tới.
Để thực thi hiệu quả Nghị quyết 68 và thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực bất động sản công nghiệp, nhất là khu công nghiệp sinh thái, ông Trương Khắc Nguyên Minh cho rằng, các cơ quan chức năng cần hoàn thiện cơ chế pháp lý và chính sách ưu đãi cho mô hình này, trong đó cụ thể hóa ưu tiên tín dụng cho bất động sản xanh, ban hành cơ chế ưu đãi và công nhận khu công nghiệp sinh thái, đặc biệt với những khu công nghiệp đang chuyển đổi qua mô hình sinh thái.
Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ về hạ tầng, đơn giản hóa thủ tục hành chính về việc thành lập và vận hành khu công nghiệp nói chung, khu công nghiệp sinh thái nói riêng, nhằm giảm thiểu thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
“Hạ tầng giao thông và logistics phải đi trước một bước, sau đó đưa ra những chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư vào hạ tầng xanh, bao gồm hệ thống xử lý nước thải, năng lượng tái tạo và giao thông xanh trong các khu công nghiệp sinh thái, nhất là khi các doanh nghiệp đang chịu sức ép từ các tiêu chuẩn phát thải toàn cầu”, ông Minh nói.
Cuối cùng, cần thúc đẩy hợp tác công - tư, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách và điều phối vùng, tư nhân đóng vai trò sáng tạo, đầu tư hạ tầng và dịch vụ. Sự phối hợp hài hòa này sẽ giúp hình thành các “vùng công nghiệp mới” và bền vững với khả năng hấp thụ dòng vốn chất lượng và duy trì sức cạnh tranh lâu dài.
Trọng Tín