Ảnh minh họa.
Với khoảng 21 triệu người sở hữu tài sản mã hóa với quy mô ước tính vượt 200 tỷ USD, Việt Nam được xếp vào nhóm 3 quốc gia hàng đầu thế giới về tỷ lệ tham gia thị trường tài sản mã hóa. Tuy nhiên, dòng tiền khổng lồ đã có một thời gian dài nằm trong “vùng xám” pháp lý, khiến nhiều dự án tài sản mã hóa đã bị lợi dụng thành công cụ lừa đảo, từ huy động vốn đa cấp trá hình, sàn đầu tư ảo đến mô hình “token hóa bất động sản” không có thật.
Số liệu từ Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) cho thấy, chỉ từ đầu năm 2025, đã phát hiện gần 1.500 vụ việc lừa đảo qua mạng, gây thiệt hại hơn 1.660 tỷ đồng. Trong đó, riêng các hoạt động liên quan giao dịch tiền ảo, tiền mã hóa lên tới hơn 1.500 kênh, hội nhóm.
Trước bối cảnh đó, Nghị quyết 05 của Chính phủ về thí điểm thị trường tài sản mã hóa được ban hành với mục tiêu “quản lý để phát triển, chứ không phải để ngăn cấm”.
Tại buổi tọa đàm “Tài sản mã hóa từ vùng xám đến thí điểm: Giải pháp đảm bảo minh bạch, an toàn, hiệu quả” do Báo Tiền Phong tổ chức ngày 6/11, các nhà quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp đã cùng thảo luận về những cơ hội và thách thức khi triển khai Nghị quyết mang tính lịch sử này.
GIAI ĐOẠN “THẬN TRỌNG” VÀ “KHOANH VÙNG” RỦI RO
Theo ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường chứng khoán (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), Nghị quyết 05 là bước tiến quan trọng trong cơ chế quản lý tài chính của Việt Nam khi lần đầu tiên có hành lang pháp lý chính thức cho tài sản mã hóa.
Trong đó, cơ quan quản lý xác định mục tiêu kép: vừa tạo không gian phát triển cho đổi mới sáng tạo, vừa kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống. Lộ trình thí điểm sẽ kéo dài 5 năm, đánh giá sau 3 năm, và chỉ cấp phép tối đa 5 tổ chức hoạt động trong giai đoạn đầu để đảm bảo khả năng giám sát và duy trình tính cạnh tranh lành mạnh.
Trả lời câu hỏi “Vì sao Điều 6 Nghị quyết quy định tài sản mã hóa chỉ được chào bán cho nhà đầu tư nước ngoài?”, ông Hòa cho biết đây là tinh thần thận trọng của cơ quan quản lý.
Các đại biểu tham dự tọa đàm.
“Năng lực hiểu biết của nhà đầu tư Việt Nam còn thấp, trong khi thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo tài sản số. Tiền bị chuyển đi trong tích tắc, việc truy hồi hoặc bồi thường gần như bất khả thi nếu xảy ra gian lận”, ông Hòa giải thích. “Do đó, giai đoạn đầu ưu tiên thu hút vốn quốc tế, đồng thời có thời gian hoàn thiện pháp lý và nâng cao nhận thức công chúng”.
PHÁT TRIỂN TỪNG BƯỚC NHƯNG KHÔNG NÊN ĐÁNH MẤT TIỀM NĂNG
Đồng tình với quan điểm “thận trọng” và khoanh vùng rủi ro trong việc thí điểm tài sản số song TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, cho rằng nếu chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia, “Việt Nam sẽ tự đánh mất tiềm năng nội lực”. Vì vậy, vị chuyên gia đề xuất nên cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp trong nước được mua tài sản mã hóa.
Theo ông Lực, tiêu chí “chuyên nghiệp” có thể được xác định bằng kinh nghiệm chứng khoán, hoặc có chứng chỉ, bằng cấp đào tạo về tài sản số, kể cả từ các khóa học quốc tế hoặc trực tuyến. Điều này vừa đảm bảo an toàn, vừa thúc đẩy dân trí về tài chính và công nghệ.
Liên hệ đến thị trường chứng khoán, ông Lực cho biết hiện nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 80% tổng số nhà đầu tư, khiến hoạt động thị trường dễ biến động và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang nỗ lực điều chỉnh cấu trúc thị trường. Theo định hướng này, nhà đầu tư cá nhân không còn giao dịch trực tiếp mà sẽ ủy thác vốn cho các công ty chuyên biệt – gọi là công ty cung ứng dịch vụ đầu tư.
“Do vậy, có thể cân nhắc mô hình này vào tài sản mã hóa để tránh làm méo mó thị trường và khiến nguồn lực xã hội bị phân tán”, ông Lực đề xuất.
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, cho rằng cần huy động nguồn lực từ 21 người sở hữu tài sản mã hóa.
Cũng đánh giá thị trường tài sản mã hóa của Việt Nam là rất tiềm năng, ông Lê Bảo Nguyên, Phó Tổng giám đốc SSI Digital, khẳng định Việt Nam là thị trường lớn với sức mua và đội ngũ phát triển trẻ, giỏi công nghệ. “Đây là lợi thế để Việt Nam không chỉ tham gia, mà còn dẫn dắt nền tảng tài chính số tương lai, cho cả thị trường trong nước và quốc tế”, ông Nguyên nói.
Vì vậy, đại diện SSI Digiral cho rằng Việt Nam cần một hành lang pháp lý cởi mở để thúc đẩy sáng tạo, đồng thời biến Việt Nam thành “cửa ngõ” phát triển hạ tầng tài sản số toàn cầu.
VẤN ĐỀ TRUY VẾT DÒNG TIỀN
Một trong những lo ngại lớn được nêu ra tại tọa đàm là rủi ro về rửa tiền và tính xác thực của tài sản.
Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng vấn đề cốt lõi khi bàn về tài sản mã hóa là giá trị và tính xác thực của tài sản gốc. Ông lo tài sản được “mặc áo hoa” – tức mã hóa nhưng giá trị thực chưa được kiểm chứng hoặc định lượng – có thể biến thành công cụ đầu cơ hoặc rửa tiền.
“Ngay cả bất động sản hữu hình mà tình trạng một tài sản thế chấp ở ngân hàng này nhưng lại đem bán cho người khác vẫn xảy ra”, ông Hiếu dẫn chứng và kiến nghị mọi giao dịch tài sản mã hóa phải đi qua hệ thống ngân hàng để kiểm soát dòng vốn.
Tuy nhiên, ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam (VBA), lại cho rằng rủi ro rửa tiền đang giảm mạnh trên toàn cầu nhờ công nghệ truy vết.
“Tỷ lệ tội phạm tài chính liên quan blockchain đã giảm từ 0,4–0,5% xuống 0,15% năm 2024, trong khi tổng giá trị giao dịch vẫn tăng mạnh”, ông Trung thông tin. “Thực tế, các ngân hàng ngày nay có thể phát hiện rửa tiền qua kênh tài sản số dễ hơn giao dịch truyền thống, bởi mọi giao dịch trên blockchain đều để lại dấu vết”.
Anh Nhi