Thi tốt nghiệp THPT 2025: Những lưu ý ôn tập và làm bài thi Ngữ văn hiệu quả trong giai đoạn 'nước rút'

Thi tốt nghiệp THPT 2025: Những lưu ý ôn tập và làm bài thi Ngữ văn hiệu quả trong giai đoạn 'nước rút'
4 giờ trướcBài gốc
Theo thầy Phan Thế Hoài, giáo viên Ngữ văn Trường THPT Bình Hưng Hòa (quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh), để ôn tập hiệu quả môn Ngữ văn, thí sinh cần chú trọng những nội dung gắn liền với thực tiễn đời sống, phục vụ trực tiếp cho việc làm bài trong kỳ thi tốt nghiệp THPT 2025.
Ngày 26/6, thí sinh sẽ bắt đầu bước vào kỳ thi tốt nghiệp THPT 2025 với môn thi đầu tiên Ngữ văn.
Ở phần đọc hiểu, thí sinh cần hệ thống hóa một số phạm vi kiến thức có liên quan đến chương trình môn Ngữ văn tập trung ở lớp 12, theo các thể loại: thơ, truyện, văn bản thông tin, nghị luận... Trong đó, theo thầy Hoài, học sinh thường mắc nhiều lỗi khi đọc hiểu thơ và truyện ngắn.
Thứ nhất đối với ngữ liệu thơ (bài thơ, đoạn thơ), thí sinh cần nắm vững một số dạng câu hỏi ở các mức độ: nhận biết, thông hiểu và vận dụng. Đặc biệt, cần xác định thể thơ bằng cách nhận diện các đặc trưng như số tiếng trong một dòng, số câu trong khổ thơ để phân biệt giữa các thể thơ: lục bát, thơ tự do, thơ năm chữ, bảy chữ...
Ngoài ra, khi được yêu cầu chỉ ra từ ngữ, hình ảnh tiêu biểu, thí sinh cần đọc kỹ bài thơ để xác định đúng theo yêu cầu câu hỏi. Trường hợp yêu cầu xác định biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ…), thí sinh chỉ cần gọi tên, không cần phân tích tác dụng, trừ khi đề bài có yêu cầu rõ ràng.
Trong trường hợp đề bài yêu cầu phân tích tác dụng của biện pháp tu từ, thí sinh cần làm rõ biện pháp tu từ đó gợi lên cảm xúc gì cho người đọc, người nghe; thể hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của tác giả, nhân vật trữ tình như thế nào.
Cũng cần lưu ý đến hiệu quả của lời tâm sự nhân vật trữ tình (ví dụ “anh”, “em”), tạo cảm giác gần gũi, chia sẻ, giúp người đọc đồng cảm với cảm xúc, suy tư của chủ thể trữ tình.
Thí sinh cần nắm bắt và phân tích diễn biến cảm xúc của nhân vật trữ tình xuyên suốt bài thơ hoặc đoạn thơ. Cảm xúc này có thể biến đổi từ buồn sang vui, từ thất vọng sang hy vọng... Từ sự vận động cảm xúc đó, thí sinh sẽ được yêu cầu liên hệ thực tiễn cuộc sống, viết một đoạn ngắn (khoảng 5 - 7 dòng. Ở phần này, thí sinh cần tóm lược cảm xúc nhân vật, từ đó rút ra một bài học, nhận định một vấn đề trong cuộc sống.
Thứ hai, với ngữ liệu truyện, thí sinh cần lưu ý một số dạng câu hỏi quen thuộc như sau: Xác định ngôi kể trong truyện như ngôi thứ nhất (người kể xưng “tôi”, trực tiếp tham gia vào câu chuyện) và ngôi thứ ba (người kể giấu mình, không xưng tôi, có thể biết hết mọi chuyện hoặc chỉ kể những gì mình thấy).
Xác định nhân vật chính của câu chuyện: Nhân vật chính là người đóng vai trò trung tâm, xuất hiện nhiều nhất, chi phối mạch truyện hoặc là đối tượng mà câu chuyện muốn tập trung thể hiện. Hãy xem xét nhân vật nào được nhắc đến nhiều nhất, có nhiều hành động, suy nghĩ, lời nói nhất và tác động lớn nhất đến diễn biến câu chuyện. Đôi khi tên của truyện cũng có thể gợi ý về nhân vật chính.
Chỉ ra một chi tiết nào đó trong đoạn trích: Đọc lướt và tìm những từ ngữ, hình ảnh, hành động hoặc lời nói cụ thể, nổi bật, có khả năng gợi cảm, gợi ý về một điều gì đó sâu sắc hơn.
Nhận xét thái độ của nhân vật chính đối với nhân vật nào đó trong đoạn trích: Nhân vật chính nói gì với nhân vật kia; lời nói đó thể hiện sự yêu mến, căm ghét, lo lắng, khinh thường, đồng cảm...; nhân vật chính có những hành động, cử chỉ nào đối với nhân vật kia. Nếu đoạn trích có miên tả nội tâm hãy xem nhân vật chính nghĩ gì, cảm thấy thế nào với nhân vật kia.
Còn ở phần viết đoạn văn nghị luận văn học (200 chữ) thầy Phan Thế Hoài hướng dẫn: Thí sinh viết đúng số lượng khoảng 150 - 300 chữ, tức là không viết dài quá cũng không ngắn quá. Bố cục có đủ các phần mở đoạn, phát triển đoạn, kết đoạn (theo hình thức tổng phân hợp); nội dung tập trung phân tích, bàn luận về một vấn đề duy nhất theo yêu cầu của đề.
Diễn đạt đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn. Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ là một lợi thế để đạt điểm cao.
Lưu ý khi nghị luận về nhân vật trữ tình trong ngữ liệu thơ: Mở đoạn cần giới thiệu khái quát về ngữ liệu thơ và nhân vật trữ tình. Thân đoạn cần phân tích cảm xúc, suy nghĩ hoặc sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trích dẫn ngắn gọn những câu thơ, từ ngữ, hình ảnh đặc sắc để làm rõ luận điểm. Giải thích tại sao những chi tiết đó lại thể hiện được cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật.
Sử dụng các từ nối (tuy nhiên, bên cạnh đó, không chỉ vậy...) để đoạn văn mạch lạc, logic. Kết đoạn là khẳng định lại vấn đề đã nghị luận. Nêu ý nghĩa, giá trị của cảm xúc, suy nghĩ đó của nhân vật trữ tình (có thể liên hệ mở rộng đến một bài học cuộc sống, một giá trị nhân văn).
Đề cũng có thể yêu cầu phân tích một số nét đặc sắc của đoạn hoặc bài thơ, cần tập trung phân tích: từ ngữ, hình ảnh; thể thơ; biện pháp tu từ; vần, nhịp; cấu tứ trong văn bản thơ.
Tương tự, viết đoạn văn nghị luận văn học (khoảng 200 chữ) liên quan đến nhân vật trong truyện cần chú ý phân tích: chi tiết, hành động, lời nói, suy nghĩ, ngoại hình của nhân vật, sự phát triển, biến đổi của nhân vật (nếu có). Liên kết chặt chẽ với chủ đề truyện để làm rõ, qua nhân vật tác giả gửi gắm tư tưởng, thông điệp gì.
Còn đối với phần viết bài văn nghị luận xã hội về vấn đề liên quan đến tuổi trẻ, học sinh cần chú ý số lượng (500 - 800 chữ); bố cục; luận điểm; lý lẽ, bằng chứng; mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác và liên hệ từ thực tiễn cuộc sống từ góc nhìn của người trẻ.
Lưu ý, khi mở rộng vấn đề trong bài nghị luận xã hội, đặc biệt là về các vấn đề của tuổi trẻ, việc phê phán những biểu hiện, tư tưởng hoặc hành vi tiêu cực là một khía cạnh quan trọng giúp bài viết có chiều sâu và tính thuyết phục. Phê phán không có nghĩa là chỉ trích gay gắt mà là phân tích, đánh giá những mặt hạn chế, sai lầm để từ đó rút ra bài học và định hướng đúng đắn.
Học sinh cần đưa dẫn chứng từ thực tế, đặc biệt là những vấn đề “nóng” liên quan đến tuổi trẻ, được nhiều người quan tâm. Chẳng hạn như sử dụng mạng xã hội và “sống ảo”; thờ ơ, vô cảm; lối sống hưởng thụ, thực dụng; hoài bão, ước mơ và lý tưởng sống; tinh thần học hỏi, đổi mới sáng tạo; việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; lòng yêu nước, tinh thần cống hiến; kỷ nguyên số…
Cùng với đó là tránh lối viết hô hào, sáo rỗng, tức là bài viết chỉ đưa ra những nhận định chung chung, khẩu hiệu suông. Tránh lối viết cực đoan, nghĩa là chỉ nhìn nhận vấn đề một chiều, tuyệt đối hóa một khía cạnh và bác bỏ hoàn toàn những khía cạnh khác, dẫn đến nhận định phiến diện. Tránh quy chụp, đánh đồng, chẳng hạn “tất cả học sinh bây giờ đều lười biếng và thiếu động lực”.
Đan Phương/Báo Tin tức và Dân tộc
Nguồn Tin Tức TTXVN : https://baotintuc.vn/giai-ma-muon-mat/thi-tot-nghiep-thpt-2025-nhung-luu-yon-tap-va-lam-bai-thingu-van-hieu-qua-trong-giai-doan-nuoc-rut-20250623174754176.htm