Thị trường tín chỉ carbon: Pháp lý chưa thông, hàng hóa chưa có!

Thị trường tín chỉ carbon: Pháp lý chưa thông, hàng hóa chưa có!
một ngày trướcBài gốc
Việt Nam có tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon. Việc phát triển thị trường này sẽ giúp Việt Nam chuyển đổi xanh nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên, dường như thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam chưa chuyển động nhiều.
Trong khi đó, theo lộ trình Chính phủ, giai đoạn đến hết năm 2028 sẽ xây dựng, tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon trong nước; từ năm 2029, xây dựng và thực hiện cơ chế đấu giá hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Phóng viên Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với TS Lê Xuân Nghĩa – Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE), thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng xoay quanh vấn đề này.
Có “hàng” mà không thể bán
Dường như thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam chưa chuyển động nhiều, theo ông vì sao?
TS Lê Xuân Nghĩa: Dù chúng ta có hành lang pháp lý cơ bản, nhưng thứ quan trọng nhất là hàng hóa thì chưa có. Hàng hóa gồm hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Hạn ngạch nghĩa là tấn CO2 tương đương mà cơ quan quản lý cho phép một doanh nghiệp, tổ chức được phép phát thải trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu cơ sở đó phát thải quá quy định thì sẽ phải mua thêm từ đơn vị khác để bù vào phần vượt quá.
Ví dụ, một công ty điện than A chỉ được phép phát thải 10 tấn/năm. Nhưng công ty này cải tiến công nghệ, nên chỉ phát thải 5 tấn, họ dư ra 5 tấn thì họ được bán. Ngược lại, một công ty khác được giao 10 tấn nhưng họ phát thải tới 15 tấn thì họ phải đi mua 5 tấn để cân bằng lại.
Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam chưa phát triển
Do đó, điều quan trọng nhất để có hàng hóa là Chính phủ phải cấp hạn ngạch phát thải cho các doanh nghiệp, nhất là 50 ngành mà Chính phủ chỉ định.
Vai trò của tín chỉ carbon trong thị trường carbon bắt buộc
Chuyển đổi xe xăng sang xe điện và 'mỏ vàng' tín chỉ carbon
Tín chỉ carbon hôm nay (9.8): PACM sẽ là 'chìa khóa' thúc đẩy thị trường carbon
Còn tín chỉ carbon đại diện cho thành quả của các hoạt động giảm phát thải hoặc tăng cường hấp thụ khí nhà kính. Để có được tín chỉ carbon, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải thực hiện các biện pháp giảm phát thải (cải tiến công nghệ, trồng cây, sử dụng năng lượng tái tạo…). Những tín chỉ này sau đó có thể được giao dịch trên thị trường.
Thị trường carbon vận hành dựa trên cung và cầu đối với hai loại hàng hóa kể trên, được phân thành 2 loại là tự nguyện và bắt buộc.
Việt Nam hiện nay mới chỉ có 1 giao dịch về tín chỉ carbon, là trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Đó là chúng ta bán tín chỉ carbon rừng 6 tỉnh Bắc Trung Bộ cho Ngân hàng Thế giới (WB), với giá 5 USD/tấn.
WB mua xong, họ cho lại Việt Nam 95% để làm nghĩa vụ quốc gia, góp phần thực hiện Net Zero. Họ giữ lại 5%. Thực ra việc được cho lại 95% cũng không nên nghĩ chúng ta được hời, vì 5% đó WB mua rẻ của Việt Nam thì họ bán vẫn có lãi.
Ngoài ra, WB tiến hành đo đạc ở một số điểm đo của Bộ Nông nghiệp và PTNT trước đây, được 21 triệu tấn nhưng họ trừ đi 5 triệu tấn vì mật độ các điểm đo thưa. Như vậy chúng ta vẫn còn dư 5 triệu tấn chưa bán cho ai.
Vì sao có tín chỉ carbon mà lại không thể bán, thưa ông?
TS Lê Xuân Nghĩa: Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam chưa chuyển động, bán trong nước thì không được mà bán ra nước ngoài thì không được phép.
Đơn vị chúng tôi quản lý vài trăm ha rừng tự nhiên – được đánh giá là một trong những cánh rừng có hệ sinh thái tốt nhất Việt Nam. Chúng tôi đã tự bỏ kinh phí ra đo đạc, xác minh số liệu và muốn bán để có kinh phí nuôi lực lượng bảo vệ rừng, hỗ trợ sinh kế cho những người đang trực tiếp chăm sóc rừng.
Tuy nhiên, dù có đối tác nước ngoài sẵn sàng mua và thậm chí đã đặt cọc, nhưng chúng tôi không thể bán được.
TS Lê Xuân Nghĩa – Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE), thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng.
Lý do là việc bán tín chỉ carbon ra quốc tế cần phải được Thủ tướng phê duyệt. Điều này nhằm đảm bảo Việt Nam còn đủ tín chỉ cho doanh nghiệp trong nước bù trừ nghĩa vụ phát thải trong tương lai theo cam kết quốc tế. Nhất là ngành hàng không, việc cam kết này phải thực hiện vào năm 2027.
Có lẽ chúng ta nên tư duy lại. Chúng ta đang lo cho các doanh nghiệp giàu có, nhưng hàng chục triệu đồng bào dân tộc thiểu số bảo vệ, gắn bó với rừng vẫn rất nghèo khổ.
Tôi cho rằng cần giải pháp để những người giữ rừng hiện nay xem rừng là nguồn sống chính của họ. Họ chỉ nhận khoản tiền 430 nghìn đồng/ha/năm thì ít quá. Một hộ gia đình có 10ha thì mỗi năm được hơn 4 triệu đồng. Nếu họ được bổ sung thêm tiền từ tín chỉ carbon thì mỗi năm, với mỗi ha rừng họ có thể bổ sung thêm được 10 triệu đồng.
Khoản thu nhập này đủ để họ sống tốt, nuôi con cái học hành. Từ đó, họ sẽ xem rừng là nguồn sống của họ và họ sẽ hết sức bảo vệ.
Nhưng việc đo đạc, thẩm định… hàm lượng tín chỉ carbon của từng khu vực có vẻ cũng không dễ dàng?
TS Lê Xuân Nghĩa: Đó cũng là một lý do. Rừng từng khu vực lại khác nhau về mật độ, chủng loại, nhiều nơi rừng trồng, carbon rất thấp. Do đó, việc đo đạc cũng rất tốn công sức và tiền bạc. Muốn làm dự án thì phải bỏ tiền ra trước để đo đạc (cả thủ công lẫn máy móc). Đo đạc xong thì phải xác định ranh giới của từng hộ, rồi đem kết quả để một công ty họ thẩm định.
Ví dụ chúng tôi làm dự án, đo thủ công mất khoảng 170 triệu/ha (dù không đo toàn bộ, ví dụ 1.000 ha thì chỉ cần đo khoảng 100 điểm).
Hiện nay trong nước cũng chưa có công ty nào để thẩm định vấn đề này, nhưng công ty nước ngoài họ sẵn sàng làm cho chúng ta.
Ví dụ, công ty KTR của Hàn Quốc, tập đoàn này họ thẩm định chất lượng sản phẩm rất uy tín. Chỉ cần công ty này đóng dấu vào sản phẩm nào thì sản phẩm đó sẽ được cả thế giới công nhận. Chúng tôi cũng đang liên doanh với họ để xây dựng báo cáo giảm phát thải khí nhà kính cho doanh nghiệp công nghiệp trước. Còn tín chỉ carbon rừng thì phải đo đạc theo nguyên tắc của họ.
Như vậy, nhìn chung cơ sở pháp lý chưa rõ ràng, chi tiết, chưa rõ ai thẩm định, trong nước hay quốc tế? Tiêu chuẩn một công ty thẩm định ra đời là gì? Pháp lý chưa đủ, hàng hóa chưa có nên thị trường tín chỉ carbon vẫn chưa chuyển động đáng kể.
Phải tạo áp lực để doanh nghiệp giảm phát thải
Nhưng cũng có ý kiến rằng nên để dành tín chỉ carbon để doanh nghiệp của Việt Nam sau này mua để cân bằng carbon, nếu bán ra nước ngoài thì sẽ mất. Ông nghĩ sao về điều này?
TS Lê Xuân Nghĩa: Thực ra tín chỉ carbon rừng thông thường bán đi cũng chỉ trong 5-10 năm, rồi sẽ được sử dụng lại. Bán trong nước thì doanh nghiệp Việt được lợi nhưng họ có quan tâm đâu? Mấy năm nay, chúng ta đã lãng phí rất nhiều tiền vì carbon không bán được.
Giảm phát thải khí nhà kính là nghĩa vụ của doanh nghiệp
Trong khi giá tín chỉ carbon trên thị trường nước ngoài khá cao. Ví dụ với 14 tỉnh phía Nam Trung Bộ, tổ chức quân bình carbon toàn cầu định mua với giá 10 USD/tấn, rồi cho lại chúng ta (còn nếu bán đứt cho họ thì tối thiểu là 20 USD/tấn). Ở Singapore, giá tín chỉ carbon này có thể lên tới 30 USD và lên tới 60 USD vào năm sau.
Điều này cho thấy nếu bán ra nước ngoài thì có lợi hơn bán trong nước. Nếu chúng ta để dành cho các doanh nghiệp nội cũng không công bằng, dẫn đến mất đi một nguồn tài chính lớn của quốc gia. Mặt khác, tình trạng này cũng khiến các doanh nghiệp nội địa không có trách nhiệm, không tạo ra động lực, sức ép để giảm phát thải mạnh mẽ.
WB tính toán chừng nào giá carbon trên toàn cầu đạt 147 USD/tấn thì hiệu quả giảm phát thải khí nhà kính mới thành hiện thực. Khi đó doanh nghiệp mới cải cách công nghệ để giảm phát thải, đầu tư trồng rừng, giữ rừng, còn nếu giá carbon vẫn thấp thì họ sẽ không quan tâm.
Như vậy, phải có áp lực lớn về trách nhiệm giảm phát thải, doanh nghiệp mới chú trọng đầu tư công nghệ, giải pháp để giảm phát thải, thưa ông?
TS Lê Xuân Nghĩa: Với các doanh nghiệp, phải xem phát thải khí nhà kính là một tội, chứ không phải thành tích, nên giảm phát thải là trách nhiệm, nghĩa vụ bắt buộc. Doanh nghiệp muốn bù đắp thì phải đi mua lại của người dân. Nếu doanh nghiệp không có sức ép thì họ sẽ không cải tiến công nghệ.
Ví dụ, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn ở Thanh Hóa, hiện nay, họ vẫn đang sản xuất loại xăng theo tiêu chuẩn Euro 2 và 3. Trong khi thế giới họ đã sử dụng chuẩn Euro 5. Điểm khác biệt lớn của 2 loại này là hàm lượng lưu huỳnh, carbon của loại xăng tiêu chuẩn Euro 2 và 3 gấp 50 lần loại xăng tiêu chuẩn Euro 5.
Nếu Chính phủ không gây sức ép thì họ cứ sản xuất loại tiêu chuẩn thấp cho “nhàn”, giá bán vẫn tương đương với loại tiêu chuẩn cao. Nhưng điều này vô cùng nguy hại cho môi trường, cũng như với các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của họ.
Đơn cử, một doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu hay Mỹ. Các doanh nghiệp đối tác họ sẽ phát hiện ra doanh nghiệp Việt đang sử dụng xăng tiêu chuẩn thấp để vận chuyển sản phẩm thì doanh nghiệp Việt sẽ gặp rất nhiều bất lợi khi tiến vào thị trường của họ.
Nhưng hiện nay giá tín chỉ carbon thấp, chúng ta bán ra nước ngoài, sau này giá sẽ tăng lên liệu các doanh nghiệp Việt sẽ gặp khó khi mua lại?
TS Lê Xuân Nghĩa: Chúng ta đặt các doanh nghiệp Việt trước thực tế đó thì họ sẽ lo lắng ngay và họ sẽ chuẩn bị. Nếu thấy bán tín chỉ carbon ra nước ngoài được khoảng 20-30 USD thì các doanh nghiệp phải nhanh chóng làm báo cáo phát thải khí nhà kính, để Chính phủ cấp hạn ngạch và họ sẽ phải mua tín chỉ để dự trữ. Còn nếu không thì doanh nghiệp sẽ không chuyển động, và carbon rừng vẫn bị lãng phí.
Chính phủ cần nhanh chóng công bố hạn ngạch carbon cho các doanh nghiệp
Một chu kỳ tín chỉ carbon rừng bán chỉ 5-10 năm, rồi sẽ được trả lại. Chúng ta cứ cho bán, doanh nghiệp chưa mua thì các nhà đầu cơ họ mua họ để đó. Điều này sẽ tạo ra được một thị trường sòng phẳng, phát triển.
Ngay như Mỹ, Tổng thống Mỹ không “mặn mà” với các chính sách về chuyển đổi xanh. Ông ấy muốn Mỹ trở thành “trùm” của thế giới về năng lượng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Mỹ họ lại tư duy khác, không giống Tổng thống. Các doanh nghiệp vẫn làm báo cáo phát thải khí nhà kính rất nghiêm túc, vì đó là cách họ định vị thương hiệu, đẳng cấp của họ.
Khảo sát cho thấy 96% doanh nghiệp Mỹ làm báo cáo phát thải khí nhà kính khá nghiêm túc, dù một số còn lại cũng làm báo cáo một cách qua loa, chưa chính xác.
Ở châu Âu, thậm chí nếu doanh nghiệp phát thải quá 10 tấn thì chỉ được đi mua carbon rừng về bồi hoàn 20%, còn 80% còn lại phải chịu thuế. Điều này để tạo sức ép cho các doanh nghiệp ứng dụng, cải tiến công nghệ để giảm phát thải, chứ không phải đi mua để bù trừ.
Nếu đi mua để bù trừ thì không khác gì lấy carbon của các nước đang phát triển để bù trừ cho mình.
Vậy theo ông, Việt Nam cần giải pháp gì để thúc đẩy thị trường carbon phát triển?
TS Lê Xuân Nghĩa: Các cơ quan chức năng nên sớm ban hành thông tư hướng dẫn nghị định của Chính phủ về thị trường carbon; sớm công bố hạn ngạch phát thải, công bố các công ty được cấp phép thẩm định trong nước cũng như các công ty quốc tế được phép tham gia lĩnh vực này.
Muốn công bố được hạn ngạch thì phải làm báo cáo phát thải nhà kính cho từng doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải báo cáo phát thải bao nhiêu thì Chính phủ mới có căn cứ để ra hạn ngạch.
Chuyên gia khuyến cáo các cơ quan chức năng nên sớm ban hành thông từ hướng dẫn nghị định của Chính phủ về thị trường carbon.
Thực ta việc xây dựng báo cáo này cũng không khó. Công ty chúng tôi cũng đấu thầu việc này cho một đơn vị, xong xuôi rồi họ bảo… không có tiền. Dường như họ cũng không có gì sốt ruột cả.
Ngoài ra, Chính phủ xây dựng hạn ngạch, nhưng hạn ngạch cần tạo ra sức ép, chứ không nên dễ dãi quá. Ví dụ họ phát thải 10 tấn mà hạn ngạch của Chính phủ 9,9 tấn thì cũng không tác động đáng kể, họ không có sức ép để cải tiến công nghệ giảm phát thải, không bõ để họ bỏ tiền để làm báo cáo.
Chúng ta cũng cần hướng dẫn thực hiện các dự án về tín chỉ carbon rừng và các quy định về địa giới hành chính, cách thức đo đạc, chứ không thể nào tính tín chỉ carbon cho từng hộ lẻ tẻ. Do đó, cần phải xây dựng một dự án, gộp cả nghìn hộ lại, dùng tọa độ để xác định ranh giới và đo đạc, xác định tín chỉ carbon cho cả vùng đó. Từ đó, cả vùng này được cấp 1 mã số như mã chứng khoán và mã này dùng giao dịch trên sàn. Sau đó, việc bán tín chỉ được bao nhiêu thì chia lại tiền cho các hộ gia đình.
Một vấn đề nữa là nên cho phép bán tín chỉ carbon của Việt Nam ra nước ngoài để tạo áp lực để các doanh nghiệp Việt quan tâm đến tín chỉ carbon. Từ đó, các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ hiện đại để giảm phát thải, hoặc phải mua của bà con để dự trữ. Không nên để tình trạng tín chỉ carbon rừng lãng phí như hiện nay.
Tôi cũng cho rằng việc thí điểm giao dịch carbon cũng nên có lộ trình. Ví dụ, ở Nhật Bản, họ chọn ra 1.000 doanh nghiệp cần mua và 1000 doanh nghiệp cần bán, hình thành một thịt rường OTC (chưa phải thị trường chính thức) để các doanh nghiệp mua bán với nhau. Từ đó, họ tìm ra được những điểm tích cực cũng như điểm khiếm khuyết để điều chỉnh. Sau đó đưa lên sàn giao dịch chính thức.
Tựu trung lại, quan trọng nhất vẫn là phải nhanh chóng tạo ra hàng hóa, trong đó, cần một mệnh lệnh thực sự để yêu cầu các doanh nghiệp làm báo cáo phát thải khí nhà kính, áp dụng công nghệ để giảm phát thải…
Xin cảm ơn ông!
Trí Lâm (thực hiện)
Nguồn Một Thế Giới : https://1thegioi.vn/thi-truong-tin-chi-carbon-phap-ly-chua-thong-hang-hoa-chua-co-235989.html