Thiết kế nền tảng vững chắc để xây dựng cả nước thành xã hội học tập

Thiết kế nền tảng vững chắc để xây dựng cả nước thành xã hội học tập
4 giờ trướcBài gốc
1. Những trụ cột giáo dục do UNESCO đề xuất
Khi triển khai Đề tài "Mô hình xã hội học tập ở Việt Nam", những nhà khoa học đã nghiên cứu sâu 2 tác phẩm lớn sau:
1. "Học tập - Một kho báu tiềm ẩn" - Learning: The Treasure Within. Người chủ trì tập thể cá bộ viết tài liệu này là Jacques Delors [Jacques Delors - "Học tập - Một kho báu tiềm ẩn". Trịnh Đức Thắng dịch, Vũ Văn Tảo hiệu đính. Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002].
"Học tập - Một kho báu tiềm ẩn" được thế giới coi là "Tuyên ngôn về giáo dục thế kỷ XXI". Tại công trình nổi tiếng này, giáo dục trong thế giới hiện đại được phân tích sâu sắc dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa. Cùng với mặt tích cực, mặt lợi ích của xu thế như giao lưu mở rộng, khoa học và công nghệ phát triển nhanh, kinh tế tăng trưởng đạt mức chưa từng có trong lịch sử phát triển nhân loại... thì việc phát triển giáo dục lại có nhiều hạn chế như sự phân phối lợi ích về giáo dục chưa đạt tới sự công bằng, việc làm của người lao động còn khó tìm kiếm, không ít người dân bị loại ra khỏi việc học tập trong xã hội. Nhóm tác giả cảnh báo rằng, để xây dựng xã hội học tập, thực hiện học tập suốt đời cho mọi người, những hạn chế trên cần được đặc biệt lưu ý.
2. Văn kiện dùng trong Hội nghị quốc tế "Giáo dục đại học trong thế kỷ XXI - Tầm nhìn và hành động" [Hội nghị "L'enseignement superieur au XXI siecle: Vision et action". Paris, 5-9/10/1998].
Hai sản phẩm khoa học trên đây đã nâng cao nhận thức của nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục, nhất là nghiên cứu về xã hội học tập và học tập suốt đời. Ấn tượng sâu sắc của hai tác phẩm trên là lời tuyên bố về 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI.
Các quốc gia tham gia vào chương trình xây dựng xã hội học tập do UNESCO điều hành đều vận dụng quan điểm 4 trụ cột của giáo dục nhằm tìm kiếm các phương thức học tập suốt đời cho mọi công dân trong xã hội.
Việt Nam cũng tích cực vận dụng quan điểm 4 trụ cột của giáo dục vào phong trào vận động nhân dân học tập suốt đời, tuy nhiên lãnh đạo Hội Khuyến học Việt Nam đã có cách làm sáng tạo của riêng mình.
Trong suốt 30 năm qua, Hội khuyến học xây dựng nhân cách con người qua các chủ trương sau:
- Học tập suốt đời là phẩm chất đạo đức mà mọi công dân phải luôn tâm niệm. Mọi người dân, trước hết là cán bộ và hội viên của Hội cần quán triệt sâu sắc tư tưởng "Học không bao giờ cùng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một triết lý làm người.
- Xây dựng quan điểm: Con người học tập và rèn luyện đạo đức để làm tốt vai trò "Người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt".
- Những giá trị cốt lõi mà con người hướng tới là hòa bình, dân chủ, độc lập, tự do.
- Đạt tiêu chí của một "Công dân học tập" là yêu cầu cơ bản của Học để làm người.
Hội Khuyến học Việt Nam cụ thể hóa nội dung 4 trụ cột giáo dục do UNESCO đề xuất. Đồ họa: Hồng Anh
II. Nền tảng của Bình dân học vụ số
Bình dân học vụ số là phong trào vận động đông đảo nhân dân học tập suốt đời trong kỷ nguyên số, lấy cảm hứng từ khái niệm Bình dân học vụ - phong trào xóa nạn mù chữ quốc ngữ năm 1945 - để nói đến cuộc vận động xóa mù chuyển đổi số, mù công nghệ thông tin khi đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thuật ngữ Bình dân học vụ số được Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập lần đầu tiên tại buổi ông tới nói chuyện với một số nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (ngày 18/11/2024) nhân dịp kỷ niệm 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam.
Ngày 26/6/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tới dự lễ ra mắt nền tảng Bình dân học vụ số. Hội Khuyến học cọi việc xây dựng hệ thống học tập suốt đời, chuyển đổi số là việc làm cần thiết để thực thi quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư.
Hội sẽ triển khai nền tảng Bình dân học vụ số gồm những nội dung sau:
- Phổ cập kiến thức, kỹ năng số cơ bản cho người lớn đang phấn đấu trở thành công dân số.
- Tổ chức các buổi học, khóa học trực tuyến về kỹ năng số.
- Giúp người lớn có kỹ năng sử dụng máy tính, các thiết bị thông minh trên mạng xã hội và dịch vụ công trực tuyến.
- Hướng dẫn hội viên về luật lệ số, an ninh mạng qua tạp chí "Công dân và khuyến học" và những trang tin của Hội khuyến học địa phương.
Hiện nay, trong Bộ tiêu chí khung về đánh giá công nhận danh hiệu "Công dân học tập", những nội dung này ít nhiều đã được xây dựng thành một số chỉ số đo cụ thể.
Chắc chắn là, tới Đại hội nhiệm kỳ VII (2026-2030), Trung ương Hội sẽ chỉ đạo xây dựng lại Bộ tiêu chí về "Công dân học tập" để đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
III. Mục tiêu giáo dục người lớn khi đất nước đi vào kỷ nguyên mới, hướng tới một quốc gia hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc và bền vững
Ngày 02/3/2025, bài viết "Học tập suốt đời" của Tổng Bí thư Tô Lâm đã được đăng tải trên Tạp chí Công dân và Khuyến học. Trong bài này, ông Tổng Bí thư đã đề cập tới một vấn đề trọng đại: "Học tập suốt đời để làm gì trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, để trở thành người công dân hữu ích cho xã hội, con người phải thông qua học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hi sinh vì lợi ích chung.
Trong triển khai việc học tập suốt đời, Hội khuyến học Việt Nam vẫn tính đến 4 trụ cột giáo dục mà UNESCO đề xuất: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm người. Song, đó là định hướng về những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần hình thành ở từng bài học, từng tài liệu học, từng khóa học.
Còn tiêu chuẩn "5 dám" mà Tổng Bí thư Tô Lâm nêu lên, Hội khuyến học Việt Nam coi đó là 5 đặc trưng nhân cách của người Việt Nam tham gia học tập suốt đời. Nói cách khác, đó là mục tiêu đào tạo những con người với tư cách là công dân hữu ích khi Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới.
Hội khuyến học Việt Nam coi nội dung "5 dám" là lời kêu gọi hành động của Tổng Bí thư đối với người dân, mong muốn mỗi người dân không ngừng học tập để trở thành những công dân tốt mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong mỏi.
Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam đã cho đăng tải trên Tạp chí "Công dân và khuyến học" những nhận thức mới về khái niệm người "công dân hữu ích" như sau:
- Mỗi thành viên trong từng gia đình, dòng họ, cộng đồng và đơn vị cần có kế hoạch cụ thể trong hành trình tri thức, bảo đảm việc tự học và cập nhật kiến thức mới để nâng cao chất lượng công việc mình đảm nhiệm, thể hiện bản lĩnh của cá nhân trước công việc do Đảng, Nhà nước trao cho, đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ được trao đúng với nghĩa "học để được trao quyền".
- Mỗi người dân thông qua học tập suốt đời để có đủ tri thức và khát vọng cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng làm bất cứ việc gì có lợi cho dân, cho Đảng.
- Trong học tập suốt đời, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo đức công dân, đạo đức cách mạng phải đặt lên hàng đầu.
IV. Những nền tảng của sự nghiệp xây dựng xã hội học tập trong xã hội tri thức
Trong 30 năm triển khai công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Hội Khuyến học Việt Nam đã hướng hành trình học tập suốt đời của người dân vào việc xây dựng nền kinh tế tri thức, và khi cách mạng công nghiệp 4.0 phát huy mạnh mẽ tác động của nó tới sự phát triển kinh tế thì Hội đã khẳng định rằng, "Xã hội tri thức là một xã hội trong đó các thể chế và các tổ chức tạo khả năng cho con người phát triển không hạn chế, và cũng tạo ra cho cá loại tri thức được sản xuất hàng loạt, được sử dụng hàng loạt trong toàn xã hội".
Để xã hội tri thức phát triển bền vững, một yêu cầu nhất thiết phải được giải quyết: Cần thiết lập một xã hội học tập, thực hiện học tập suốt đời cho tất cả mọi người thì phải bảo tồn sự đa dạng của tri thức, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và tri thức của công dân như một nguyên tắc tối cao, tri thức phải đến với từng người, từng nhà, từng cộng đồng.
Vì vậy, xã hội tri thức đó phải có những nền tảng để nó dựa vào. Những nền tảng đó là:
Nền tảng chính trị
Nền tảng này bao gồm những thể chế đồng bộ về chính sách, nguyên tắc, luật lệ, quy định có tính bắt buộc để bảo đảm tính bền vững trong phát triển của xã hội học tập, bảo đảm quyền học tập suốt đời của con người.
Ở Việt Nam, nền tảng chính trị có tính quy định đường lối phát triển và những chính sách triển khai được thể hiện tập trung trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, những quyết định, luật định do Chính phủ ban hành...
Những văn kiện này sẽ tạo ra những môi trường giáo dục đa dạng để xã hội học tập được xây dựng và phát triển trên mọi địa bàn dân cư với những đặc điểm địa lý, văn hóa, kinh tế rất đa dạng.
Nền tảng kinh tế tri thức
Ý nghĩa cơ bản của nền tảng này là ở chỗ kinh tế tri thức vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để mở rộng các cơ sở sản xuất ra những tri thức mới, hiện đại và mang tính toàn cầu. Các lĩnh vực thông tin và truyền thông sẽ là những tổ chức dịch vụ tốt cho sự phát triển các phương thức học tập suốt đời, các thiết chế đa dạng cho việc học tập của người lớn.
Nền tảng khoa học và công nghệ
Nền tảng này là bao gồm những công nghệ cao (những công nghệ có được nhờ các hoạt động nghiên cứu khoa học - trong mỗi công nghệ mới, công nghệ cao luôn kết tinh hàm lượng tri thức hiện đại, hàm lượng chất xám ở trình độ cao nhất).
Trước năm 2000, những công nghệ cao chủ yếu là công nghệ máy tính, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và Internet). Hiện nay, trong thập niên 2020-2030, đó là các công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, Robot thông minh.
Nền tảng giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo vừa là môi trường sinh thái cho việc học tập suốt đời, vừa là đường dẫn của sự chuyển hóa những thông tin thành tri thức. Giáo dục người lớn, việc học tập suốt đời của họ và hệ thống học tập không chính quy và phi chính quy sẽ là bộ phận hợp thành không thể thiếu trong hệ thống giáo dục quốc dân. Phải học tập suốt đời thì lực lượng lao động mới không lạc hậu với nền kinh tế tri thức. Vì thế, học tập thường xuyên, học tập suốt đời phải là chính sách ưu tiên trong mọi chính sách phát triển giáo dục.
Nền tảng tư tưởng
Hội Khuyến học Việt Nam, thúc đẩy việc học tập suốt đời trên nền tảng truyền thống hiếu học của dân tộc, đồng thời lấy tư tưởng "Học không bao giờ cùng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm triết lý học tập, học tập để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt.
V. Những điều kiện cơ bản để phát triển bền vững xã hội học tập
1. Để xác định những điều kiện cơ bản - những điều kiện nhất thiết phải có - nhằm xây dựng và phát triển xã hội học tập, trước hết cần sáng tỏ mục đích của sự nghiệp xây dựng xã hội học tập, hay nói khác đi là làm rõ những kỳ vọng đối với việc học tập suốt đời. Hội Khuyến học đã xây dựng khái niệm "xã hội học tập" bằng những nhận thức sau:
- Xã hội học tập là mô hình giáo dục mở, trong đó mọi công dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ học tập suốt đời. Xã hội học tập tạo ra mọi cơ hội và điều kiện để tất cả công dân đều được công bằng và bình đẳng xã hội trong học tập;
- Xã hội học tập là một triết lý giáo dục, coi học tập suốt đời là chìa khóa mở ra sự phát triển của quốc gia. Việc học tập của công dân được tiến hành không chỉ trong khuôn khổ giáo dục chính quy, mà còn trong giáo dục không chính quy và phi chính quy.
- Xã hội học tập là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế tri thức. Đến lượt nó, xã hội học tập lại là động lực, là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển.
- Mục đích cuối cùng của việc xây dựng xã hội học tập của mọi quốc gia đều hướng đến đào tạo những công dân học tập (những người học tập suốt đời) và có được nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu lao động của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trên thế giới, không có mô hình xã hội học tập chung cho mọi quốc gia. Việc thiết kế mô hình xã hội học tập hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của từng dân tộc.
- Trong xã hội học tập, mọi rào cản đối với việc học hành của công dân đều được nhà nước tháo gỡ, bảo đảm không có ai bị bỏ quên trong việc tổ chức học tập suốt đời cho mọi người.
- Xã hội học tập yêu cầu công dân thực hiện "Hành trình tri thức" thật bền bỉ trong suốt cuộc đời để tiếp cận với những tri thức bổ ích nhất cho công việc mình đang đảm nhiệm và cho sự phát triển bền vững của bản thân.
2. Để đạt được những kỳ vọng về xã hội học tập như đã nói trên đây, sự nghiệp xây dựng xã hôi học tập đòi hỏi phải có những điều kiện đáp ứng.
Tham khảo cấu trúc đặc trưng của xã hội học tập mà UNESCO đưa ra, mô tả theo logic UNESCO, Hội Khuyến học Việt Nam đã thiết kế cấu trúc xã hội học tập ở nước ta như sau:
Cấu trúc đặc trưng mô hình xã hội học tập ở Việt Nam. Đồ họa: Hồng Anh
Phần mái nhà: 3 mục tiêu chính mà việc học tập suốt đời của nhân dân phải hướng tới.
Phần cột nhà: Những nội dung cốt lõi của học tập suốt đời mà Hội khuyến học thực hiện.
Phần nền nhà: 3 điều kiện nhất thiết phải bảo đảm để việc xây dựng xã hội học tập đạt kết quả tốt.
Đến đây, ta sẽ đi vào xem xét từng điều kiện mà phần nền nhà đã thể hiện:
Điều kiện 1: Sự cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước
Những cam kết của Đảng, về phương diện chính trị, trong nhiều năm qua, được thể hiện ở những Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương Đảng cũng như của cấp ủy địa phương về phát triển và đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, thúc đẩy việc học tập suốt đời trong nhân dân.
Một trong những nội dung quan trọng trong các văn kiện đó là Đảng đã yêu cầu cao khi giao cho Hội khuyến học phải đóng vai trò nòng cốt trong việc gắn kết, phối hợp với các lực lượng xã hội tham gia đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng xã hội học tập.
Yêu cầu này thể hiện sự trao quyền cho dân khi việc học tập suốt đời đã đạt tới những kết quả khả quan. Đến một thời điểm nhất định, Đảng và Chính phủ đã xếp Hội vào danh sách các tổ chức xã hội có tính đặc thù, và bây giờ là "Hội được giao nhiệm vụ".
Được Đảng và Nhà nước trao quyền, Hội đã làm tốt việc vận động nhân dân học tập để có năng lực đối đầu với dịch bệnh Covid-19, khắc phục những hậu quả của lũ lụt, ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, tiến hành những hoạt động khuyến học xanh có hiệu lực...
Gần đây, trong bài viết "Xã hội học tập", Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu đặt ra với người công dân. Hội nhận thức rằng, bài phát biểu của Tổng Bí thư cũng mang ý nghĩa của sự trao quyền. Hội sẽ phải bổ sung những chỉ số đo về mô hình công dân học tập, sao cho thể hiện được những năng lực và phẩm chất của người "Công dân hữu ích" như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói.
Điều kiện 2: Sự huy động các nguồn lực của Chính phủ để xây dựng xã hội học tập
Các nguồn lực trong xã hội rất đa dạng, bao gồm nguồn lực tài chính, nguồn lực con người, nguồn lực vật chất cùng các thể chế với tư cách là nguồn lực tinh thần vô hình nhưng lại đầy sức mạnh.
Hiện nay, Chính phủ đã yêu cầu việc học tập suốt đời phải được tổ chức theo tinh thần Bình dân học vụ số. Công việc đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về tài chính để tạo nên nền tảng của Chương trình chuyển đổi số trong các phương thức học tập suốt đời. Song, đầu tư về tài chính chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Việc đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật để đào tạo những công dân có những kỹ năng số mới là điều kiện cốt lõi.
Trong giai đoạn 2026-2030, Hội Khuyến học cần đề xuất được tiêu chí cụ thể cho danh hiệu "Công dân số" (và đương nhiên phải tính đến năng lực của công dân toàn cầu) để Chính phủ có hạng mục đầu tư về hạ tầng cơ sở cho việc đào tạo mô hình này.
Mô hình "Công dân học tập" giai đoạn khởi đầu đi vào kỷ nguyên mới (2026-2030). Đồ họa: Hồng Anh
Vấn đề đặt ra là:
- Cần một bộ tiêu chí khung mới về đánh giá công nhận danh hiệu "Công dân học tập", trong đó có sự lồng ghép các năng lực cốt lõi và những chỉ số đo của 3 loại hình công dân như trong hình vẽ.
- Mô hình "Công dân học tập" cho giai đoạn đi vào kỷ nguyên mới tất sẽ làm thay đổi nhiều cấu trúc đặc trưng của xã hội học tập ở Việt Nam.
- Những thay đổi trên sẽ quy định việc huy động các nguồn lực cho xã hội học tập.
Điều kiện 3: Sự phối hợp tham gia chung tay của các lực lượng xã hội
Hội Khuyến học Việt Nam trong nhiều năm qua đã thực hiện nhiều hội thảo, hội nghị khoa học về xây dựng xã hội học tập với nhiều đại diện của các Bộ, ngành, đoàn thể, Quân đội, Công an, trường đại học, doanh nghiệp...
Hội cũng đã ký kết với nhiều tổ chức về kế hoạch hợp tác đẩy mạnh cuộc vận động học tập suốt đời trong các tổ chức, mở ra các lớp học, khóa học trực tuyến, phát triển các mô hình công dân học tập, đơn vị học tập trong trường học, doanh nghiệp, lực lượng an ninh và quốc phòng...
Thông qua sự phối hợp, chung tay của các lực lượng xã hội mà Hội khuyến học đóng vai trò nòng cốt, tiến độ xây dựng xã hội học tập được đẩy nhanh, phong trào học tập suốt đời không chỉ được triển khai rộng rãi tại địa bàn tổ dân phố, thôn bản, xã phường mà còn tại các cơ quan, đoàn thể.
Trong sự phối hợp, chung tay tham gia xây dựng xã hội học tập của các lực lượng xã hội, mô hình liên kết đang được hình thành và phát triển, bao gồm các thành viên sau đây: Cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ + Các tổ chức phi chính phủ + Doanh nghiệp + Trường Đại học và Viện nghiên cứu + Lực lượng an ninh, quốc phòng.
GS.TS Phạm Tất Dong
Nguồn Công dân & Khuyến học : https://congdankhuyenhoc.vn/thiet-ke-nen-tang-vung-chac-de-xay-dung-ca-nuoc-thanh-xa-hoi-hoc-tap-179251014150127797.htm