Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030 và nước thu nhập cao năm 2050. Theo PGS Lim Kok Yoong (ĐH RMIT Việt Nam), để đạt được điều này, phát triển hạ tầng thông minh phải song hành với gìn giữ hồn văn hóa.
"Xã hội thông minh mà chúng ta xây dựng đến năm 2050 sẽ có những nghệ sĩ số biết biên dịch văn hóa, những nhà văn thành thạo ngôn ngữ lập trình và những nhà phát minh công nghệ biết làm thơ", ông nói và nhấn mạnh: "Thế hệ sáng tạo trẻ cần mạnh dạn nắm lấy vai trò quan trọng của mình trong tương lai ấy".
Thói quen số hóa của người Việt đang phát triển nhanh chóng, đặc biệt là trong giới trẻ - Ảnh: Unsplash
Số hóa xã hội Việt Nam hiện đại
Trong vòng một thập kỷ, Việt Nam đã chuyển mình nhanh chóng vào xã hội số. Từ gọi taxi qua app, thanh toán hóa đơn bằng ví điện tử, đến nộp giấy tờ hành chính qua dịch vụ công trực tuyến - người Việt giờ đây đang sống giữa hệ sinh thái số rộng lớn.
Theo Statista, số người dùng internet tại Việt Nam tăng từ 36 triệu năm 2014 lên 88 triệu năm 2024, và dự kiến vượt 100 triệu vào 2027. Con số này khiến Việt Nam trở thành một trong những thị trường internet phát triển nhanh nhất châu Á.
Thế nhưng, trong khi hạ tầng số phát triển mạnh, nền kinh tế sáng tạo mới chỉ đóng góp 0,63% GDP năm 2023. Một nghịch lý là công nghệ có mặt ở khắp nơi, nhưng sức mạnh văn hóa - yếu tố giúp con người tìm thấy ý nghĩa - lại chưa được khai thác đủ.
Hầu hết các đề án về đô thị thông minh hiện nay đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng sống thông qua công nghệ, từ giao thông nhanh hơn, các hệ thống thông minh hơn đến dịch vụ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu thiếu chiều sâu văn hóa, những tầm nhìn này có nguy cơ trở thành “vỏ rỗng công nghệ”, tức là hiệu quả trên bề mặt nhưng lại thiếu tính nhân văn, vốn là yếu tố khiến các thành phố trở nên đáng sống, PGS Lim Kok Yoong (Đại học RMIT) cảnh báo.
Ông nói thêm, các dự án đô thị thông minh thường tập trung vào giao thông, quản lý năng lượng hay xử lý dữ liệu. Chúng đem lại sự tiện lợi, nhưng có thể khiến thành phố đánh mất nét văn hóa. Một thành phố thông minh không chỉ cần tốc độ mạng 5G, mà còn phải biết bảo tồn những quán cà phê nhỏ bên vỉa hè, những hội múa rối nước, hay tiếng rao buổi sáng - thứ tạo nên cảm giác “thuộc về”.
Một đô thị thông minh không chỉ là công nghệ, dữ liệu mà phải có chiều sâu văn hóa - Ảnh: Internet
Văn hóa số - nền tảng cho thành phố thông minh
“Văn hóa số” - khái niệm vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam - không chỉ là nội dung được số hóa hay các ngành công nghiệp sáng tạo mà đó còn là cách con người hành xử, tương tác, hình thành niềm tin và giá trị cùng công nghệ trong môi trường số. Đồng thời, đó cũng là cách văn hóa và di sản được bảo tồn và tích hợp vào hệ sinh thái số. Tuy nhiên, trong các chiến lược đô thị thông minh hiện nay, việc số hóa văn hóa vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Theo PGS Lim Kok Yoong, thành công của chiến lược phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào việc triển khai công nghệ từ trên xuống, mà còn nằm ở khả năng thích nghi văn hóa từ dưới lên và những sáng kiến đổi mới do người dân khởi xướng. Đô thị thông minh cần được thiết kế không chỉ để tối ưu dữ liệu, mà còn để nâng cao trải nghiệm con người - đảm bảo rằng công nghệ sẽ làm giàu thêm, chứ không phải phai mờ đi bản sắc địa phương, khả năng sáng tạo và giá trị văn hóa.
Người Việt Nam chúng ta rất nổi tiếng trong linh hoạt và sáng tạo trong đời sống thường nhật. Hãy nhìn vào một nét đặc trưng của đô thị Việt: văn hóa xe máy - điều dường như hỗn loạn trong mắt người ngoài thực chất là một hệ thống tự tổ chức đầy linh hoạt và sáng tạo. Nó phản ánh cách người dân điều hướng, thương lượng và thay đổi cách sử dụng hạ tầng để phù hợp với cuộc sống thực tế của mình - một minh chứng sống động cho khả năng sáng tạo bền bỉ của người Việt.
Điều này cũng đã được UNESCO ghi nhận: Hà Nội, Hội An, Đà Lạt được vinh danh là "Thành phố sáng tạo", mỗi nơi một sắc thái - từ thiết kế, thủ công mỹ nghệ đến âm nhạc. Các danh hiệu ấy cho thấy Việt Nam có nền tảng văn hóa mạnh để tích hợp vào hành trình số hóa.
Một triển lãm tranh tại Viện bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM - Ảnh: K.N
Hoặc những nghệ sĩ trẻ đang thử nghiệm nghệ thuật số (digital art), kết hợp công nghệ thực tế ảo với di sản truyền thống như họa sĩ Bảo Nguyễn với "Triều đại đa sắc" hay nghệ sĩ thị giác Huỳnh Minh Thống 12 tác phẩm siêu thực tái hiện kiến trúc văn hóa Việt Nam trong “Sợi mắc sợi mành”... Và đó cũng là cách công nghệ không chỉ “đo lường” cuộc sống, mà còn “kể lại” những câu chuyện cội nguồn bằng ngôn ngữ mới.
Con người luôn là yếu tố trung tâm
Theo quan điểm của PGS Lim Kok Yoong thì phần lớn các thảo luận về đô thị thông minh hiện nay chủ yếu còn tập trung hạn hẹp vào công nghệ hóa hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, dẫn đến sự xuất hiện của các thuật ngữ như công nghệ tài chính (FinTech), công nghệ khu vực công (GovTech), công nghệ giáo dục (EduTech) hay công nghệ y tế (HealthTech). Trong khi đó, nhiều chiến lược quốc gia và khu vực lại thiếu vắng hình bóng của công nghệ nghệ thuật (ArtTech) hay công nghệ văn hóa (CultureTech) - những lĩnh vực nuôi dưỡng bản sắc, văn hóa, sự sáng tạo và cảm giác gắn kết.
Một đô thị thông minh thực sự phải đặt con người ở trung tâm. Công nghệ có thể đo đếm mọi thứ: lượng xe qua ngã tư, số bước chân trong ngày, mức năng lượng tiêu thụ. Nhưng chỉ con người mới mang lại cảm xúc và ý nghĩa.
Ở đây, Việt Nam đang có lợi thế là một thế hệ trẻ lớn lên vừa linh hoạt công nghệ, vừa giàu trí tưởng tượng. Trường đại học như RMIT, FPT... hay các cơ sở giáo dục công, tư trong nước, đang dạy sinh viên trở thành công dân số không chỉ giỏi code, mà còn nhạy cảm với văn hóa.
Phó giáo sư Lim Kok Yoong (Đại học RMIT)
Cuối cùng, theo PGS Yoong, một đô thị thông minh không chỉ vận hành bằng dữ liệu, mà còn cần những nhạc sĩ, nhà văn, họa sĩ - những người giữ cho thành phố có linh hồn. Và nếu làm được điều đó, Việt Nam không chỉ là một quốc gia số, mà còn là nơi văn hóa và công nghệ cùng song hành để tạo nên một tương lai đáng sống.
Nhật Hạ