Thiếu tướng Trần Tử Bình: Tấm gương sáng để lớp lớp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang noi theo

Thiếu tướng Trần Tử Bình: Tấm gương sáng để lớp lớp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang noi theo
2 giờ trướcBài gốc
Tại đây, ông được truyền tay đọc nhiều sách báo yêu nước tiến bộ của Đông Kinh nghĩa thục, Cách mạng Tân Hợi… Do vậy, sớm có tinh thần yêu nước và khát vọng được mang sức lực, trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
Cuộc đời cách mạng của Trần Tử Bình có bước chuyển quan trọng khi ông gặp Tống Văn Trân - một hội viên của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Được Tống Văn Trân giác ngộ, Trần Tử Bình quyết định tham gia phong trào “vô sản hóa” để thấu hiểu cuộc sống của công nhân, nỗi cùng cực mà những người lao động đang phải gánh chịu, đồng thời giác ngộ, vận động, tổ chức họ đấu tranh.
Năm 1927, ông vào Nam tham gia “vô sản hóa” tại đồn điền cao su Phú Riềng và tích cực tham gia hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ngô Gia Tự và các đồng chí trong Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1928, theo chỉ thị của Ngô Gia Tự, Trần Tử Bình được giao nhiệm vụ vận động, tổ chức quần chúng và thiết lập Nghiệp đoàn Cao su Phú Riềng với số lượng thành viên chiếm tới 1/3 tổng số người lao động nơi đây. Khi chi bộ Việt Nam cách mạng Thanh niên được thành lập tại đây, Trần Tử Bình được gia nhập tổ chức này.
Thiếu tướng Trần Tử Bình. Ảnh: baovannghe.vn
Ngày 28-10-1929, Chi bộ Đông Dương cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng được thành lập gồm 6 đồng chí, trong đó có Trần Tử Bình. Cuối năm 1929, ông được giao đảm nhiệm Bí thư chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của ông, chi bộ cộng sản Phú Riềng đã thể hiện rõ sứ mệnh là đội tiền phong của giai cấp công nhân, tích cực chuẩn bị cho cuộc đấu tranh đầu tiên đòi quyền lợi của công nhân.
Ngày 3-2-1930, dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, hơn 5.000 công nhân cao su và người lao động của 10 làng trong khu vực đã biểu tình, bao vây khu nhà chủ sở của công ty Michelin và buộc giới chủ phải đáp ứng thực hiện 6 quyền lợi thiết yếu bao gồm: Cấm đánh đập, cấm cúp phạt, miễn sưu thuế, trả lương cho nữ công nhân nghỉ đẻ, ngày làm 8 giờ, bồi thường cho công nhân bị tai nạn lao động… Lực lượng công nhân còn phong tỏa toàn bộ khu vực đồn điền, sau đó tiếp tục tuần hành từ nhà chủ sở về làng số 3 chiếm giữ khu Trại Cưa, tước vũ khí của viên giám thị và viên cai, chiếm nhà máy điện, nhà máy cưa, kho gạo, làm chủ các làng số 3, số 9. Toàn bộ đồn điền Phú Riềng trở thành “Khu đỏ” đặt dưới quyền quản lý của tự vệ và công nhân. Tuy nhiên, theo chỉ đạo của chi bộ Đảng, toàn bộ các cuộc mít tinh biểu tình đều được thực hiện có tổ chức và trong hòa bình, không gây đổ máu, với phương châm “đấu tranh hợp pháp với đế quốc”.
Sáng 6-2-1930, thực dân Pháp huy động xe bọc thép, hơn 300 lính lê dương, 500 lính khố đỏ, do đích thân Thống sứ Nam Kỳ Krauheime, cùng Công sứ Biên Hòa Marty, Phó công sứ Biên Hòa Vilmont và Chánh mật thám Đông Dương Arnoux chỉ huy tiến tới khu vực đồn điền Phú Riềng. Chính quyền thuộc địa đã sẵn sàng cho một cuộc đàn áp mạnh tay đối với phong trào công nhân nơi đây nếu có bất kỳ sự phản kháng nào. Tuy nhiên, kế hoạch đàn áp của thực dân Pháp đã bất thành khi toàn bộ công nhân Phú Riềng vẫn sinh hoạt bình thường. Dưới sức ép đấu tranh của công nhân, giới chủ đồn điền và thống sứ Nam Kỳ tuy buộc phải chấp nhận một số yêu sách nhưng chúng đã tiến hành bắt giữ tất cả những người lãnh đạo phong trào Phú Riềng trong đó có Trần Tử Bình và nhiều đồng chí của ông. Cuối năm 1930, Trần Tử Bình bị kết án 10 năm khổ sai và bị đầy ra Côn Đảo.
Trong những năm tháng bị tù đày tại Côn Đảo, Trần Tử Bình được gặp lại Tống Văn Trân và Ngô Gia Tự, được tiếp xúc với với các đảng viên cộng sản như: Tôn Đức Thắng, Bùi Lâm, Phạm Hùng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Trần Văn Giàu, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hà Huy Giáp... Ông tích cực tham gia xây dựng, hoạt động của tổ chức Đảng trong nhà, thực hiện chủ trương “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”.
Năm 1935, việc Mặt trận bình dân giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tại Pháp đã ảnh hưởng đến chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa tại Đông Dương. Chính quyền thực dân buộc phải ân xá một số tù chính trị. Do vậy, một số tù chính trị Côn Đảo như: Trần Tử Bình, Hoàng Quốc Việt, Lương Khánh Thiện... được trả tự do.
Ngay khi ra tù, họ đã sớm liên hệ và bắt được liên lạc với tổ chức Đảng, cùng nhau bước vào cuộc đấu tranh cách mạng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939. Trần Tử Bình được phân công nhiệm vụ xây dựng chi bộ Đảng, xây dựng Huyện ủy và hoạt động tại Bình Lục (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Ông đã trở thành Bí thư Huyện ủy, tham gia Tỉnh ủy rồi được cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam (nay là tỉnh Ninh Bình). Năm 1940, Trần Tử Bình tiếp tục bị bắt giam tại nhà tù Nam Định. Tuy nhiên, do không đủ chứng cứ nên ông được trả tự do.
Năm 1941 Trần Tử Bình tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, nhận nhiệm vụ Bí thư Liên khu D (Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang), sau đó Bí thư Liên Khu C (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình). Trong những năm 1941-1943, Trần Tử Bình đã dành nhiều công sức để xây dựng hệ thống cơ sở cách mạng, kết nạp được nhiều đảng viên mới tại những địa phương trên.
Tháng 12-1943, Trần Tử Bình lần thứ 3 bị thực dân Pháp bắt và kết án 20 năm khổ sai, giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Trong tù, ông gặp những đảng viên cộng sản như Trần Đăng Ninh, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Tất Đắc, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Tuân, Đỗ Mười... Với những kinh nghiệm đã trải qua tại Côn Đảo, ông cùng các đồng chí của mình tiếp tục thực hiện chủ trương “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, tích cực tham gia xây dựng tổ chức tự quản của tù chính trị…
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm toàn cõi Đông Dương. Sau đảo chính, quân Nhật lúng túng trong việc quản lý nhà tù. Nhận thấy đây là thời cơ tốt, Trần Tử Bình tham gia lãnh đạo, tổ chức thành công cuộc vượt ngục lịch sử của hơn 100 tù chính trị Nhà tù Hỏa Lò vào các tối: 11-3 và 12-3.
Sau khi vượt ngục, Trần Tử Bình bắt liên lạc với Xứ ủy Bắc Kỳ, được phân công tham gia Thường vụ Xứ ủy, phụ trách xây dựng chiến khu Quang Trung (gồm các tỉnh: Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa). Tháng 7-1945, ông được phân công về cơ quan Thường vụ Xứ ủy, phụ trách các tỉnh Bắc Bộ. Ông đã tham gia và có nhiều đóng góp trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội vào ngày 19-8-1945.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Trần Tử Bình được cử vào quân đội, giữ chức Phó giám đốc, Chính ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946), Phó bí thư Quân ủy Trung ương (1947). Thu - Đông 1947, Trần Tử Bình cùng Lê Thiết Hùng chỉ huy Mặt trận Đường số 2 - Sông Lô, đập tan một trong hai gọng kìm của quân Pháp tiến quân lên Việt Bắc hòng chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Với những thành tích và chiến công lập được, tháng 1-1948, đồng chí Trần Tử Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 112/SL phong hàm Thiếu tướng.
Từ năm 1950 đến 1955, Trần Tử Bình là Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (đóng tại Côn Minh - Vân Nam - Trung Quốc). Ông đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo hàng ngàn cán bộ - lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng và phát triển các đại đoàn chủ lực, mở các chiến dịch tiến công quy mô ngày càng lớn, giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1956, Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam về nước và đóng quân ở sân bay Bạch Mai. Trần Tử Bình nhận nhiệm vụ mới - Phó tổng thanh tra Chính phủ kiêm Tổng Thanh tra quân đội.
Năm 1959, Thiếu tướng Trần Tử Bình được cử làm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, kiêm nhiệm Mông Cổ. Trên cương vị mới, ông đã góp phần quan trọng tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam và đã tích cực góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân hai nước.
Tháng 9-1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng, Trần Tử Bình được bầu là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương. Ông đã cùng Ban Chấp hành Trung ương đề ra nhiều chủ trương đúng đắn, sáng tạo về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Được bạn tín nhiệm, năm 1963, Trần Tử Bình được giao làm Trưởng đoàn Ngoại giao tại Bắc Kinh đại diện cho 241 đại sứ đương nhiệm tại Trung Quốc. Từ năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nước ta, Đại sứ Trần Tử Bình luôn bám sát theo dõi thực tế chiến trường, chủ động đề xuất nhiều giải pháp cho Trung ương Đảng về việc tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Trung Quốc, góp phần giải quyết tốt các yêu cầu cả về quân sự và kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Ngày 11-2-1967, trong lần về nước dự họp, ông bị cảm rồi đột ngột từ trần tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô khi vừa tròn 60 tuổi.
Xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, Trần Tử Bình sớm được giác ngộ cách mạng và qua hoạt động sôi nổi trong phong trào công nhân, ông đã trở thành một cán bộ rất mực trung kiên của Đảng. Là Chính ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946), Phó bí thư Quân ủy Trung ương (1947), Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân (1950-1955), Tổng Thanh tra quân đội (1956-1959), Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1959-1967), đồng chí Trần Tử Bình đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đào tạo nhiều thế hệ cán bộ có đức, có tài, làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng và chiến đấu thắng lợi của Quân đội nhân dân Việt Nam; có nhiều cống hiến trên mặt trận ngoại giao.
Sáu mươi tuổi đời với gần 40 năm tham gia hoạt động cách mạng, Thiếu tướng Trần Tử Bình là một cán bộ mẫu mực về đạo đức “Cần - Kiệm - Liêm - Chính, Chí công - Vô tư”, hết lòng thương yêu đồng chí đồng đội và luôn được cán bộ, chiến sĩ tin yêu. Ông là một tấm gương sáng để lớp lớp cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang noi theo. Do những công lao đóng góp của ông đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Thiếu tướng Trần Tử Bình được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; sau đó được truy tặng: Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967), Huân chương Hồ Chí Minh (2001), Huân chương Sao Vàng (2008).
Nguồn QĐND : https://www.qdnd.vn/tuong-linh-viet-nam/thieu-tuong-tran-tu-binh-tam-guong-sang-de-lop-lop-can-bo-chien-si-luc-luong-vu-trang-noi-theo-1015512