Thời gian qua, Ấn Độ đang nổi lên là nơi đóng góp nguồn khách lớn cho du lịch, đứng vị trí thứ 6 về số lượng khách quốc tế đến Việt Nam vào năm ngoái. Đây cũng là thị trường nhiều tiềm năng khi số lượng người dân có nhu cầu đi du lịch ngày càng lớn hơn.
Đó là lý do mà đầu năm nay, hãng hàng không Vietjet đã mở thêm hai đường bay mới tới Ấn Độ, nâng tổng số chuyến bay mỗi tuần giữa hai nước lên con số 78. Không chỉ có Vietjet, Tập đoàn Vietravel cuối năm ngoái cũng gia tăng xúc tiến tới đất nước hơn 1,4 tỷ dân khi khai trương Công ty Viet India Travel tại đây.
Những nỗ lực đa dạng hóa thị trường của các doanh nghiệp như vậy không chỉ giúp du lịch Việt Nam giảm rủi ro khi suốt thời gian dài phụ thuộc vào nguồn khách Trung Quốc, Hàn Quốc, mà còn giúp gia tăng lượng khách, hướng tới mục tiêu đón 22 - 23 triệu khách quốc tế vào năm nay.
Mục tiêu ấy đòi hỏi không những doanh nghiệp mà còn các cơ quan quản lý điểm đến, các nhà làm chính sách sự hiểu biết kỹ lưỡng về dịch chuyển của các thị trường khách, từ đó có những định hướng và hành động phù hợp, khai thác tối đa tiềm năng của nguồn khách.
Để hiểu rõ hơn về các thị trường đóng góp khách cũng như câu chuyện phát triển thị trường của du lịch Việt Nam, TheLEADER đã có cuộc trò chuyện với ông Đặng Mạnh Phước, Giám đốc điều hành Outbox Company – công ty nghiên cứu thị trường và phân tích dữ liệu du khách.
Vài năm gần đây, thị trường Ấn Độ đã trở thành mục tiêu mới của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Ông đánh giá như thế nào về những cơ hội, thách thức mà thị trường này mang lại cũng như vị thế của Việt Nam trong thu hút khách Ấn?
Ông Đặng Mạnh Phước: Thời gian gần đây, chúng ta đều thấy lượng khách Ấn Độ đến Việt Nam gia tăng, nguyên nhân là bởi nhu cầu từ thị trường này đang ở mức cao. Dù vậy, nếu so sánh với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia thì lượng khách ấy không hề nhiều.
Nguyên nhân là bởi, Ấn Độ là một thị trường khách khá đặc biệt khi có tới 30% khách đi du lịch với mục đích thăm người thân ở quốc gia khác. Con số này cao hơn nhiều lần mức 10 – 15% của các quốc gia châu Á khác theo dữ liệu của Outbox. Người Ấn tới các nơi có cộng đồng người Ấn lớn, nhiều doanh nghiệp Ấn đang hoạt động.
Trong tương lai, dòng đầu tư từ Ấn Độ vào Việt Nam gia tăng thì có thể kéo thêm lượng khách từ nước này. Nhu cầu của khách Ấn rất lớn, nếu Việt Nam có thể khai mở được thì nhu cầu đó sẽ chảy về phía chúng ta.
Tuy nhiên, người Ấn Độ có nhiều điểm đặc trưng về văn hóa khác với Việt Nam. Do đó, lượng khách Ấn gia tăng nhanh sẽ là thách thức nếu chúng ta không thật sự sẵn sàng, không chủ động xây dựng chiến lược hay sự chuẩn bị nào. Những gì mà du lịch Việt Nam đã từng đối mặt với nguồn khách ồ ạt từ Trung Quốc có thể sẽ lặp lại với khách Ấn.
Lượng khách Ấn gia tăng nhanh sẽ là thách thức nếu du lịch Việt Nam không thật sự sẵn sàng. Ảnh: Công ty ThreeLand
Trở lại với các thị trường khách truyền thống của Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về sự trở lại của khách Trung Quốc trong năm vừa qua?
Ông Đặng Mạnh Phước: Trung Quốc là thị trường lớn của du lịch Việt Nam, xếp vị trí thứ hai về số lượng khách quốc tế tới nước ta vào năm ngoái và dự kiến tiếp tục quay trở lại mạnh mẽ trong năm nay.
Tuy nhiên, vấn đề đang nổi lên với thị trường nguồn này là bản chất của lượng khách, nghĩa là những tệp khách nào đang đi sang Việt Nam. Không ít doanh nghiệp ở sâu bên trong nội địa tại các điểm đến lớn như Nha Trang, Đà Nẵng chia sẻ rằng họ không thấy khách Trung đến.
Đây cũng là thực tế với nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và lời giải thích nằm ở lượng lớn du khách đi qua biên giới các nước. Bài toán đặt ra hiện nay là có bao nhiêu du khách như vậy, họ chi tiêu như thế nào và đóng góp bao nhiêu cho nền kinh tế tại quốc gia họ tới.
Theo định nghĩa chung, bất kỳ ai đến một quốc gia khác với mục đích di chuyển cá nhân sẽ đều có thể tính là khách du lịch, nhưng rõ ràng là, những du khách càng đi sâu vào trong khu vực nội địa bằng máy bay và di chuyển các điểm du lịch chính thì khả năng chi tiêu, thời gian lưu trú của họ sẽ cao hơn.
Do đó, nếu chỉ tính lượt nhập cảnh mà không phân loại rõ thì chúng ta sẽ không hiểu rõ bản chất, không có bức tranh chính xác về lượng khách này.
Không chỉ vậy, khi nhìn vào xu hướng du lịch của người Trung Quốc, chúng tôi không thấy Việt Nam nằm trong đó. Người Trung Quốc đã chuyển dần sang du lịch nội địa hoặc sang quốc gia khác như Thái Lan – nơi có chính sách rất cởi mở với lượng khách Trung.
Liệu rằng sự thay đổi của lượng khách Trung Quốc như vậy sẽ ảnh hưởng lên mục tiêu đầy tham vọng đón 22 – 23 triệu lượt khách quốc tế trong năm nay, tăng trưởng khoảng 25 – 30% so với năm ngoái của ngành du lịch hay không?
Ông Đặng Mạnh Phước: Ở thời điểm hiện tại, với những gì đang diễn ra cùng với tiềm năng đi lại của du khách Trung Quốc, con số 22 – 23 triệu lượt khách mà Việt Nam đặt ra không phải là quá xa vời.
Tuy nhiên, như tôi đã nhấn mạnh, điều quan trọng không chỉ là số lượng khách, mà chất lượng khách du lịch đến với chúng ta mới quan trọng hơn.
Còn nếu như chỉ dựa vào số lượng, Việt Nam, với lợi thế địa lý và tiềm năng sẵn có, hoàn toàn có thể đạt được lượng khách lớn mà không cần nỗ lực quá nhiều, một điểm đến “hữu xạ tự nhiên hương”.
Nhu cầu đi lại giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn sẽ luôn tồn tại dù hình thức có thể thay đổi.
Nhìn vào năm 2025, việc Trung Quốc tiếp tục mở cửa được kỳ vọng sẽ giúp mở rộng lượng khách du lịch thuần túy tới Việt Nam. Có một điều thuận lợi hiện nay là du lịch Trung Quốc gần đây thu hút nhiều khách Việt, có các đường bay đi và chắc chắn, sẽ có đường bay về, tạo cơ sở cho niềm tin thị trường khách lớn hàng đầu của du lịch Việt Nam sẽ thực sự trở lại.
Vậy liệu rằng có điều gì cần phải lưu ý đằng sau niềm tin tích cực trên?
Ông Đặng Mạnh Phước: Theo những gì tôi quan sát và từ những dữ liệu mà Outbox có được, các thị trường khách nguồn của du lịch Việt Nam hiện còn quá nhiều ẩn số về cơ cấu khách đến. Vấn đề này cần phải được giải quyết nếu Việt Nam muốn phát triển du lịch bền vững.
Nhìn vào những con số về khách quốc tế trước Covid-19 và hiện nay, các thị trường hàng đầu tới Việt Nam gần như giống hệt. Qua mùa Covid-19 với nhiều biến động, cơ cấu thị trường của du lịch Việt Nam vẫn ổn định, nhưng đó lại là một sự ổn định đáng lo. Chúng ta vẫn phụ thuộc vào một số thị trường và các vấn đề vẫn sẽ tiếp tục xuất hiện trong vài năm tới.
Vấn đề tìm kiếm các thị trường khách đến mới, giảm rủi ro phụ thuộc là câu chuyện đã được nhắc đến rất nhiều năm qua. Nhưng sự ổn định mà ông nhắc đến, cùng những dữ liệu thống kê, rõ ràng cho thấy nỗ lực đa dạng hóa thị trường đã thất bại. Ông đánh giá thế nào về điều này?
Ông Đặng Mạnh Phước: Từ góc độ quan sát, rõ ràng chúng ta đều thấy các doanh nghiệp đã có nỗ lực trong thời gian qua, tuy nhiên, nhiều nỗ lực không được hiện thực hóa.
Bài toán thực tế là đa dạng hóa thị trường như thế nào, đầu tư bao nhiêu ngân sách cho mục tiêu đó và nhiều câu hỏi chi tiết khác đã luôn bị bỏ trống. Dường như có một trận đá banh giữa doanh nghiệp và chính phủ khi các doanh nghiệp đặt nhiều kỳ vọng vào chính sách nhưng còn vướng nhiều rào cản để giúp mọi thứ thành hình.
Một vấn đề khác nữa là không ít doanh nghiệp du lịch Việt Nam có các lựa chọn khá an toàn. Trong bối cảnh Covid – 19 khi mà nhiều thị trường truyền thống đóng cửa, không ít doanh nghiệp đã nỗ lực tìm kiếm các nguồn khách thay thế hay chuyển sang làm khách nội địa. Tuy nhiên, khi tình hình thị trường trở lại, doanh nghiệp sẽ quay lại phương thức làm việc cũ.
Lý do cho điều này trước hết đến từ vấn đề tài chính. Ngành du lịch Việt Nam giống như “gia công dịch vụ du lịch”, số lượng nhiều nhưng doanh thu, lợi nhuận trên mỗi du khách lại không quá lớn, kéo theo lợi nhuận doanh nghiệp mỏng, ít tích lũy. Do đó, khi doanh nghiệp muốn đa dạng hóa thị trường thì lại không có nguồn lực đầu tư vào tìm kiếm dữ liệu, xây dựng chiến lược dựa trên dữ liệu. Rõ ràng doanh nghiệp có mong muốn nhưng khả năng làm được lại hạn chế.
Tiếp theo là câu chuyện làm như thế nào. Để có thêm khách, ngành du lịch cần quảng bá, xúc tiến nhiều hơn, nhưng hiện nay, các hoạt động này ở phía cơ quan nhà nước thì giống đi tuyên truyền, còn doanh nghiệp thì lại mang tâm thế người phục vụ. Chúng ta đón khách, chăm sóc khách thay vì tập trung vào vấn đề kinh doanh từ nguồn khách.
Trong bối cảnh ngày càng nhiều du khách lựa chọn đi tự túc, các doanh nghiệp, các điểm đến buộc phải tiếp cận được chính những vị khách đó, hiểu được những hành vi trong du lịch để thuyết phục khách đến. Tuy nhiên, đây là điều mà ngành du lịch Việt Nam hiện vẫn chưa làm được.
Báo cáo của Outbox gần đây cũng chỉ ra rằng, chỉ số về mức độ hấp dẫn điểm đến của Việt Nam rất tốt, tức là du khách rất thích tới Việt Nam, nhưng các chỉ số về chiến lược, về những nỗ lực truyền thông lại rất yếu so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Mọi thứ vẫn đang là một mớ bòng bong cần một cơ quan rõ ràng chịu trách nhiệm về câu chuyện quảng bá này như bài học kinh nghiệm từ các nước như Thái Lan hay Singapore.
Theo Outbox, chỉ số về mức độ hấp dẫn điểm đến của Việt Nam rất tốt nhưng các chỉ số về chiến lược, về những nỗ lực truyền thông lại rất yếu. Ảnh: Hoàng Anh
Vậy khi việc đa dạng hóa nguồn chưa mang lại kết quả, các thị trường truyền thống rõ ràng vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu của ngành du lịch Việt Nam năm nay. Ngoài Trung Quốc, ông đánh giá như thế vào về thị trường Hàn Quốc?
Ông Đặng Mạnh Phước: Hiện tại, Hàn Quốc vẫn là một nguồn khách lớn đầy tiềm năng với Việt Nam do người dân nước này có nhu cầu đi du lịch nước ngoài lớn với mức chi tiêu đáng kể, được hỗ trợ bởi các đường bay kết nối từ các hãng hàng không trong và ngoài nước.
Với Việt Nam, trong 1 – 2 năm tới, nguồn khách này không có gì quá lo. Tuy nhiên, sẽ có sự dịch chuyển một chút tại các điểm đến, ví dụ như Đà Nẵng có thể sẽ giảm một chút bởi khả năng cao phải chia sẻ lượng khách Hàn với các điểm đến mới.
Cùng với đó, khi nhìn cả góc độ cả ngành du lịch hay góc độ địa phương, tỷ lệ cao khách Hàn trong tổng lượng khách quốc tế là điều quá rủi ro và đáng lo trong tương lai.
Nguyên nhân là bởi người dân Hàn Quốc cực kỳ nhạy cảm với các yếu tố khách quan so với các thị trường khác. Đơn cử như cuối năm vừa qua, vụ tai nạn hàng không đã ảnh hưởng đến tâm lý của du khách Hàn khi đi du lịch bằng máy bay.
Ngoài ra, thì cần tính đến những rủi ro lớn hơn trong bối cảnh Hàn Quốc có nhiều yếu tố bất ổn trong nội tại mà chúng ta lại không có thị trường thay thế. Một trường hợp tương tự mà chúng ta đã thấy là việc Trung Quốc đóng cửa khiến phần lớn hoạt động phải dừng lại.
Du lịch cũng là ngành kinh doanh và rõ ràng, nguyên lý kinh doanh bền vững là không nên phụ thuộc quá nhiều vào một khách hàng. Ở thời điểm hiện tại, chúng ta có thể yên tâm trong ngắn hạn rằng thị trường Hàn Quốc sẽ không có vấn đề gì nhưng những rủi ro khách quan có thể đến bất cứ lúc nào.
Điều đáng nói hơn là không chỉ Hàn Quốc mà ở tất cả các thị trường, theo dữ liệu Outbox có được, du khách trở nên nhạy cảm hơn với các yếu tố khách quan. Chúng ta không thể có bất kỳ định lượng hay dự báo nào trong dài hạn.
Sự thay đổi của du khách rõ ràng sẽ nhanh hơn rất nhiều so với khả năng chuyển đổi của các doanh nghiệp và đặc biệt là các điểm đến. Do đó, nếu không có chiến lược bền vững và sự chuẩn bị kỹ lưỡng, ngành du lịch sẽ dễ rơi vào thế bị động, phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
Với bối cảnh như vậy, theo ông, đâu sẽ là thị trường giúp Việt Nam gia tăng sự ổn định và bền vững trong dài hạn?
Ông Đặng Mạnh Phước: Bất cứ du khách nào đến với Việt Nam đều là điều trân quý. Tuy nhiên, nhìn về tương lai, quan điểm của Outbox là du lịch Việt Nam nên tập trung nhiều hơn cho thị trường Đông Nam Á – du lịch nội vùng.
Dù doanh nghiệp Việt Nam có muốn hay không, du lịch nội vùng vẫn là xu hướng cốt lõi của du lịch toàn cầu. Đơn cử, khách du lịch lớn nhất của châu Âu là người châu Âu, khách du lịch lớn nhất của các quốc gia châu Á cũng là người châu Á.
Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi năm ngoái, có đến 80% khách quốc tế tới Việt Nam là khách châu Á. Thái Lan cũng có xu hướng tương tự hay Singapore cũng vậy.
Du lịch nội vùng luôn luôn là nguồn cung khách lớn nhất, là khu vực trọng tâm cần sự ưu tiên. Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào nguồn khách từ các thị trường Đông Bắc Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và gần như đang để trống hoàn toàn thị trường Đông Nam Á.
Điều này của Việt Nam khác biệt so với các quốc gia khác cùng khu vực khi trong nhóm năm thị trường nguồn lớn nhất của Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia đều có sự góp mặt của khách Đông Nam Á.
Xu hướng này mang lại cơ hội nhiều hơn thách thức khi Việt Nam hiện vẫn là điểm đến mới với nhiều quốc gia Đông Nam Á - một khu vực có tới 600 triệu dân. Du khách Đông Nam Á cũng sẽ giúp giải quyết nhiều vấn đề mà du lịch Việt Nam vẫn luôn lo lắng, như vấn đề thị thực hay đường bay kết nối.
Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải khai thác nhiều hơn khu vực này thay vì kỳ vọng vào tăng trưởng số lượng từ châu Âu hay Mỹ. Đây là nhóm thị trường sẽ mang đến cho Việt Nam những lợi ích khác về chất lượng như chi tiêu nhiều hơn và doanh thu cao hơn chứ không phải bù đắp khoảng trống số lượng mà khách Hàn Quốc và Trung Quốc để lại.
Việc phát triển điểm đến, về mặt thị trường, sẽ luôn có hai bài toán sẽ phải giải quyết cân bằng. Đó là bài toán về nguồn khách chất lượng, phù hợp với một số điểm đến. Cùng với đó là bài toán về quy mô, số lượng khách để phủ đầy số lượng phòng hiện có tại Việt Nam hiện nay.
Với mục tiêu mà ngành du lịch đóng góp ít nhất 10% GDP trong những năm tới thì số lượng khách vẫn đóng vai trò khá quan trọng. Vì vậy, khu vực châu Á vẫn là nguồn khách quan trọng, không chỉ là số lượng mà còn có thể mang đến phân khúc du khách chi tiêu nhiều nếu Việt Nam có chiến lược và hành động đúng đắn, kịp thời.
Cảm ơn ông về những chia sẻ thú vị!