Sông Tô Lịch được đầu tư cải tạo tương đối đồng bộ, đáp ứng được mưa 310mm trong hai ngày. Ảnh: Khánh Huy
Hệ quả sau hai cơn bão liên tiếp
7 ngày sau trận mưa lớn ngày 30/9 do ảnh hưởng của bão số 10, Hà Nội lại hứng chịu thêm một đợt mưa lớn kéo dài trong đêm 6 và sáng 7/10 sau bão số 11. Lượng mưa phổ biến từ 100 đến 180mm, riêng xã Hải Bối lên tới 348,8mm, phường Ô Chợ Dừa 334,8mm, những con số hiếm thấy trong nhiều năm qua. Kết quả là hơn 120 điểm ngập úng xuất hiện trên toàn TP, nhiều tuyến phố biến thành “sông”, giao thông tê liệt, cơ quan cho phép nhân viên làm việc tại nhà, trường học chuyển sang học trực tuyến. Trước đó, trận mưa lịch sử ngày 30/9 đã khiến hơn 80 điểm ngập, nhiều khu vực bị chia cắt. Mực nước trên các sông dâng cao, các hồ chứa vượt ngưỡng tràn khiến hệ thống thoát nước vốn đã quá tải lại càng hoạt động kém hiệu quả. Hệ quả, việc rút nước kéo dài, ngập úng lan rộng khắp từ nội đô đến vùng ven.
Sau “bài học đắt giá” của trận mưa ngày 30/9, chính quyền TP đã chủ động hơn trong công tác ứng phó với bão số 11. Theo Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội Nguyễn Thế Công, Sở đã xây dựng bốn kịch bản cụ thể cho từng cấp độ ngập, cùng phương án huy động nhân lực, phương tiện, và cảnh báo sớm. Công ty Thoát nước Hà Nội cũng triển khai 100% lực lượng ứng trực từ ngày 4/10, đảm bảo vận hành trạm bơm và xử lý sự cố. Tuy nhiên, theo Phó Tổng Giám đốc Trịnh Ngọc Sơn, lượng mưa thực tế đã vượt xa công suất thiết kế, khiến nhiều khu vực ngập sâu không thể kiểm soát. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng giúp giảm phần nào thiệt hại, song vẫn không đủ để Hà Nội tránh khỏi cảnh ngập nước chỉ sau vài giờ mưa. Điều này cho thấy bài toán chống ngập của Thủ đô không chỉ nằm ở khâu vận hành, mà sâu xa hơn là câu chuyện quy hoạch và hạ tầng đô thị.
Theo quy hoạch, hệ thống thoát nước Hà Nội được chia thành ba vùng chính: tả Đáy, hữu Đáy và Bắc Hà Nội. Trong đó, chỉ vùng sông Tô Lịch (diện tích khoảng 7.750ha), bao gồm khu vực nội đô và một phần các quận cũ như: Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hoàng Mai, được đầu tư cải tạo tương đối đồng bộ, đáp ứng được mưa 310mm trong hai ngày. Thế nhưng, khi lượng mưa vượt ngưỡng 70mm/giờ, tình trạng ngập úng vẫn xảy ra. Hai vùng còn lại, hữu Đáy (31.310ha) và Bắc Hà Nội (46.740ha), gần như chưa được đầu tư hệ thống thoát nước bài bản, trong khi tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Kết quả là các khu vực như Nam Từ Liêm (cũ), Long Biên (cũ) hay vùng ngoại thành thường xuyên ngập nặng mỗi khi mưa lớn.
Phía Tây Hà Nội hiện vẫn phụ thuộc vào tiêu thoát tự nhiên theo địa hình, qua kênh mương thủy lợi. Khi nước sông Nhuệ dâng cao, toàn khu vực trở thành “túi nước” khổng lồ. Dù Trạm bơm Yên Nghĩa đã được xây dựng với công suất 120m³/giây, nhưng hệ thống dẫn nước La Khê chưa hoàn thiện, khiến trạm chỉ vận hành 50–70% công suất thực tế.
Thách thức môi trường đô thị
Theo GS.TS Nguyễn Việt Anh, Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, để giảm tải cho hệ thống cống, Hà Nội cần tăng cường xây dựng hồ chứa và bể chứa tạm nhằm giữ nước mưa trước khi thải ra sông. Đồng thời, chia nhỏ các lưu vực để dễ đầu tư và quản lý, tránh dồn tải về một số công trình đầu mối. Đáng chú ý, các chuyên gia quy hoạch nhận định Hà Nội đang phát triển theo mô hình “vết dầu loang”, đô thị mở rộng nhanh nhưng thiếu hạ tầng đồng bộ. Hàng loạt khu đô thị mọc lên, nhưng hệ thống hồ điều hòa, bể ngầm chứa nước lại không được đầu tư tương xứng. Nhiều kênh mương nông nghiệp buộc phải “gánh” thêm nhiệm vụ thoát nước đô thị, dẫn đến tắc nghẽn, quá tải và ô nhiễm. Để thay đổi tình trạng này, Hà Nội cần đưa ra tiêu chí bắt buộc về diện tích mặt nước, cây xanh, không gian thấm nước tự nhiên trong các dự án đô thị mới. Những “vùng đệm sinh thái” này không chỉ giúp chống ngập mà còn điều hòa vi khí hậu, tạo môi trường sống bền vững hơn cho người dân.
Một trong những hướng tiếp cận mới được giới chuyên gia khuyến nghị là huy động người dân tham gia giám sát và quản lý hạ tầng thoát nước. Việc này không phải là chuyển giao trách nhiệm cho cộng đồng, mà là mở rộng sự tham gia xã hội, giúp tăng tính minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách. Chính quyền giữ vai trò chủ đạo trong quy hoạch, đầu tư và duy tu hạ tầng; còn người dân trở thành lực lượng đồng hành trong việc bảo vệ cống rãnh, kênh mương, hồ điều hòa, cũng như giám sát các hành vi lấn chiếm, xả rác gây tắc nghẽn. Nhiều mô hình “phường xanh – sạch – không ngập” có thể được nhân rộng để phát huy hiệu quả thực tiễn.
Trước diễn biến ngày càng cực đoan của thời tiết, Hà Nội cần một tư duy phát triển đô thị mới. Quy hoạch phải gắn chặt với đặc thù địa hình, khí hậu, và hướng đến khả năng thích ứng lâu dài. Trước mắt, TP cần đẩy nhanh tiến độ các dự án tiêu thoát nước trọng điểm, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống trạm bơm Tây Hà Nội, kênh La Khê và các hồ điều hòa trong khu vực nội đô. Đồng thời, tăng cường quản lý cốt nền, chống san lấp ao hồ, kiểm soát chặt việc xây dựng trên đất nông nghiệp để giữ vùng thoát nước tự nhiên.
Hai trận ngập lịch sử trong vòng một tuần là hồi chuông cảnh báo cho Thủ đô đang phát triển quá nhanh nhưng thiếu bền vững. Hà Nội không thể chỉ trông chờ vào những chiếc máy bơm công suất lớn, mà cần một chiến lược đô thị thích ứng với nước, sống hài hòa với thiên nhiên. Khi đó, những cơn mưa lớn sẽ không còn là nỗi lo, mà trở thành phép thử cho bản lĩnh của một TP văn minh, hiện đại và biết trân trọng môi trường sống của chính mình.
Mỗi ngày TP phát sinh hơn 1 triệu m³ nước thải sinh hoạt, nhưng chưa đến 30% được xử lý đạt chuẩn. Hàng chục sông hồ nội thành đang bị ô nhiễm nặng nề do nước thải xả trực tiếp. Trong khi đó, lượng mưa trung bình hằng năm lên tới 1.600–1.800 mm, phần lớn chảy tràn, gây ngập nhưng lại không được tận dụng để bổ cấp nước ngầm hay phục vụ sinh hoạt. Đây là sự lãng phí lớn, đặc biệt trong bối cảnh nguồn nước sạch đang ngày càng khan hiếm.
PGS.TS Đoàn Thu Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường
Nguyễn Đăng