Tại điểm d khoản 3 Điều 22 dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) quy định về kiểm tra thuế, Bộ Tài chính đề xuất thời hạn kiểm tra thuế không quá 20 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra. Trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn 1 lần, nhưng không quá 20 ngày.
Thời hạn kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết không quá 40 ngày, trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn 1 lần, nhưng không quá 40 ngày. Trường hợp cần thu thập, trao đổi thông tin với cơ quan thuế nước ngoài, thì thời hạn kiểm tra thuế có thể kéo dài, nhưng không quá 2 năm.
Thời hạn kiểm tra quy định tại điểm d khoản này không bao gồm thời gian tạm dừng kiểm tra.
Việc kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết thường phức tạp, do liên quan đến thuế quốc tế và bảo vệ quyền đánh thuế của các nước. Ảnh: TN
Theo quy định hiện hành, thông thường, thời hạn kiểm tra đối với doanh nghiệp nói chung là 20 ngày, trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn 1 lần, nhưng không quá 20 ngày.
Đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết thì thời hạn kiểm tra là 40 ngày, trong trường hợp cần thiết thì có thể lên đến 80 ngày để đảm bảo được việc tiến hành cuộc kiểm tra trong trường hợp nội dung về giao dịch liên kết phức tạp (nhưng không phải tất cả các trường hợp kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết đều có thời hạn là 80 ngày).
Thuyết minh cho đề xuất này tại dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Bộ Tài chính cho rằng, thời hạn kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết cần dài hơn thời hạn kiểm tra đối với doanh nghiệp thông thường. Lý do là, trong thực thế, kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết thường gặp nhiều khó khăn, phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp khiếu nại do liên quan đến thuế quốc tế và bảo vệ quyền đánh thuế của các nước.
Phía công ty con tại Việt Nam do chịu sự chi phối, kiểm soát từ công ty mẹ, nên vấn đề xử lý qua kiểm tra công ty con báo cáo về công ty mẹ quyết định và nhiều trường hợp các đoàn kiểm tra phải chờ sắp xếp lịch làm việc đối thoại trực tiếp với công ty con tại Việt Nam và công ty mẹ, nên thời gian thực hiện kiểm tra thường kéo dài. Ví dụ, các cuộc thanh tra Công ty TNHH Nước giải khát Coca - Cola (3 năm); Công ty TNHH Maersk Việt Nam (2 năm); Công ty TNHH Westlake Compound Việt Nam, Công ty TNHH Hưng nghiệp Formosa, Công ty TNHH SYNGENTA Việt Nam, Công ty TNHH Partron Việt Nam (1 năm)…
Việc xử lý về thuế liên quan đến giải quyết tranh chấp về giá chuyển nhượng qua thanh tra thời gian giải quyết cũng rất dài (khoảng 2 - 5 năm). Vì vậy, cần bổ sung quy định về thời hạn kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.
Theo thông lệ quốc tế, thời gian thực hiện kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết (transfer pricing tax audit) thường rất dài. Với việc chuyển thanh tra chuyên ngành thành kiểm tra chuyên ngành, nếu không có sự thay đổi quy định về thời gian, thì việc kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết khó có thể thực hiện đạt hiệu quả.
Kinh nghiệm quốc tế tại một số quốc gia về thời gian thực hiện thanh tra/kiểm tra đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết như sau: tại Malaysia, thời gian thực hiện 1 cuộc kiểm tra giá chuyển nhượng là 450 ngày từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Nếu quá 450 ngày chưa kết thúc, thì cơ quan thuế sẽ thông báo cho người nộp thuế.
Tại Singapore, thời gian kiểm tra giá chuyển nhượng không vượt quá 4 năm. Cơ quan thuế phải hoàn thành cuộc kiểm tra trong thời hạn này và không được gia hạn thêm.
Trên thế giới, một số quốc gia, vùng lãnh thổ không có quy định cụ thể về thời gian thực hiện thanh kiểm tra thuế.
Hàn Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) không có quy định cụ thể về thời gian thực hiện thanh tra thuế. Người nộp thuế có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan thuế và có thể chủ động yêu cầu gia hạn thời gian cung cấp, thông thường là thêm 2 - 3 tháng. Sau thời gian gia hạn, người nộp thuế vẫn có thể yêu cầu gia hạn thêm nếu có lý do giải trình phù hợp, thời gian được gia hạn thêm tùy thuộc vào cơ quan thuế.
Thái Lan tuy không có quy định cụ thể, nhưng thực tế, cơ quan thuế Thái Lan thường kết thúc thanh kiểm tra trong vòng 1 năm.
Trung Quốc không có quy định pháp lý cụ thể về thời hạn tối đa phải kết thúc kiểm tra. Tuy nhiên, báo cáo thực tiễn cho thấy, đối với các tập đoàn đa quốc gia có cơ cấu phức tạp, nhiều giao dịch và số liệu lớn, thời gian kiểm tra thường kéo dài trên một năm. Độ dài này xuất phát từ việc cơ quan thuế phải phân tích lượng thông tin đồ sộ, so sánh với dữ liệu độc lập, cũng như trao đổi, thương thảo với doanh nghiệp về các điều chỉnh dự kiến. Trong trường hợp đặc biệt phức tạp, cuộc kiểm tra có thể kéo dài nhiều năm trước khi đi đến kết luận cuối cùng.
Nhật Bản, qua trao đổi với chuyên gia của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), không có quy định pháp lý cụ thể về số ngày tối đa cho một cuộc kiểm tra thuế giá chuyển nhượng. Tuy nhiên, theo thực tế thì một cuộc kiểm tra toàn diện giá chuyển nhượng thường kéo dài 1 - 2 năm.
Tại Australia, thời gian cho một cuộc kiểm tra giá chuyển nhượng không có quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật, nhưng theo thông lệ và hướng dẫn của Cơ quan Thuế Australia (ATO), thời gian kiểm tra thường kéo dài 6 - 18 tháng, tùy thuộc mức độ phức tạp của giao dịch và mức độ hợp tác của doanh nghiệp.
Do đó, quy định về thời hạn kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết tại dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là phù hợp với tình hình thực tế và phù hợp với thông lệ quốc tế./.
Văn Tuấn