Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn Quốc hội ngày 19/6.
Trong phiên chất vấn sáng nay tại Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đã giải đáp về lo ngại khả năng cung ứng vốn cho hàng loạt siêu dự án hạ tầng và yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao từ năm 2025 trở đi.
Bà Hồng cho biết tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam dựa rất lớn vào dòng vốn đầu tư, song hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Điều này phản ánh qua hệ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) của Việt Nam cao hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
"Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư thực hiện tăng thêm để tăng thêm 01 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hệ số ICOR thay đổi tùy theo thực trạng kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng đồng vốn. Nếu hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao và ngược lại", theo Cục Thống kê.
Bà nhấn mạnh, trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng 8% hoặc cao hơn trong năm 2025, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thu hút đầu tư nước ngoài phải được xem là ưu tiên hàng đầu.
Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng dòng vốn FDI hiện nay chưa tạo được sự lan tỏa cần thiết, khi khả năng chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị và kết nối với khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn còn hạn chế.
Theo thống đốc, cần có sự thay đổi trong chiến lược thu hút vốn FDI, theo hướng tăng cường gắn kết với nền kinh tế trong nước, không chỉ về tài chính mà còn về công nghệ và năng lực quản trị.
Về phía nội lực, bà Hồng cho biết hệ thống ngân hàng hiện đang là nguồn cung vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Dư nợ tín dụng đến cuối năm 2024 đã đạt mức 134% GDP.
Từ kinh nghiệm điều hành kinh tế vĩ mô, Thống đốc Hồng cho rằng cần lưu tâm vốn trong nước, nếu phụ thuộc lớn vào vốn tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung, dài hạn thì sẽ tiềm ẩn rủi ro hệ thống và có thể gây hệ lụy cho nền kinh tế.
Từ nay đến năm 2030, Việt Nam sẽ triển khai hàng loạt dự án lớn để có thêm 2.000km đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, sân bay quốc tế, cảng biển và thực hiện Quy hoạch Điện VIII cùng các cam kết khí hậu tại COP26.
Nhu cầu vốn vì vậy sẽ rất lớn và đòi hỏi phải tính toán kỹ lưỡng về nguồn huy động, khả năng vay và kế hoạch phân kỳ đầu tư, dự phòng nguồn vốn nhằm đảm bảo dự án khởi công, tăng trưởng cao mà không bị động, không tạo áp lực lớn tới rủi ro vĩ mô.
Bà Hồng cho biết Ngân hàng Nhà nước đang triển khai nhiều giải pháp để huy động vốn nhàn rỗi để tăng tín dụng trung và dài hạn.
Trong bối cảnh đó, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 đã được Ngân hàng Nhà nước đặt ra ở mức khoảng 16%, có thể điều chỉnh tùy theo diễn biến lạm phát. Tín dụng ngân hàng, theo bà Hồng, tiếp tục đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế, hỗ trợ đồng thời ba trụ cột là đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu.
Với vai trò trung tâm cung cấp dịch vụ tài chính, Ngân hàng Nhà nước cam kết sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng và cải thiện hiệu quả phục vụ doanh nghiệp và người dân.
Tuy nhiên, Thống đốc cũng cảnh báo rằng trong một nền kinh tế mở như Việt Nam, điều hành chính sách tiền tệ là nhiệm vụ không dễ dàng. Ngân hàng Nhà nước vừa phải đảm bảo tăng trưởng tín dụng, vừa thực hiện ổn định vĩ mô, trong khi luôn đối mặt với biến động từ thị trường quốc tế.
“Chúng tôi sẽ tiếp tục theo sát tình hình, sử dụng linh hoạt các công cụ điều hành để kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và giữ an toàn hệ thống ngân hàng,” bà Hồng khẳng định.
Bà nhấn mạnh, nếu các nền tảng kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ không ổn định, sẽ rất khó cho doanh nghiệp phát triển, nhất là trong mục tiêu tăng trưởng cao đã được Quốc hội và Trung ương Đảng đề ra.
Từ đó, bà kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành trong điều hành kinh tế vĩ mô, hướng tới một chiến lược tổng thể, hài hòa và vì mục tiêu chung: tăng trưởng cao nhưng bền vững.
Nhật Hạ