Bổ sung chính sách nhân văn, hướng đến hội nhập
Các đại biểu bày tỏ nhất trí cao với chủ trương cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất dùng chung toàn quốc, được quy định tại khoản 8, Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 32 Luật Giáo dục… Đây là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, thể chế hóa Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá trong giáo dục – đào tạo, cũng như Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông.
Theo ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Lâm Đồng), thời gian qua, vấn đề “một bộ sách hay nhiều bộ sách” nhận được rất nhiều phản ánh từ cử tri, giáo viên và ĐBQH. Việc Nhà nước thống nhất ban hành một bộ sách giáo khoa dùng chung cho cả nước là điều nhân dân đồng tình, phấn khởi và mong đợi. “Xã hội hóa trong biên soạn, in ấn và phát hành sách giáo khoa cần được xác định rõ ràng ở từng khâu, tránh lạm dụng, tiêu cực. Xã hội hóa phải có kiểm soát, công khai, minh bạch và bảo đảm chất lượng, để hệ thống giáo dục hoạt động đồng bộ, hiệu quả”, đại biểu nhấn mạnh.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Hữu Thông (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: H.Phong
Về tài liệu giáo dục địa phương, đại biểu thống nhất với hướng giao thẩm quyền biên soạn, thẩm định và phê duyệt cho UBND cấp tỉnh... Cụ thể, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh tổ chức biên soạn; hội đồng cấp tỉnh thẩm định; Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. Cách làm này giúp địa phương chủ động, tránh chậm trễ trong phát hành tài liệu – tình trạng từng gây khó khăn trong thực tế thời gian qua.
ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Lâm Đồng) thì cho rằng, cách viết và quy định trong dự thảo luật còn thiếu nhất quán, chưa thật rõ ràng về mục tiêu, cơ chế thực hiện. Một bộ sách giáo khoa phải phục vụ một mục tiêu duy nhất, hướng đến đánh giá năng lực học sinh, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục và phù hợp với từng cấp học.
Đại biểu nhấn mạnh, bộ sách giáo khoa phải đặt trọng tâm vào hiệu quả, tính thống nhất và khả thi; không sa đà vào chi tiết hay hình thức. Việc Nhà nước cung cấp một bộ sách thống nhất thể hiện trách nhiệm trong bảo đảm cơ hội học tập bình đẳng, tránh quan niệm sai rằng “một bộ sách là không công bằng”.
Công bằng ở đây chính là việc mọi học sinh được học cùng một chương trình, cùng chuẩn đầu ra… Về chất lượng, đại biểu đề nghị phải xác định tiêu chuẩn đánh giá bộ sách giáo khoa đạt chuẩn quốc gia, khu vực hay quốc tế để phù hợp với mục tiêu giáo dục.
ĐBQH Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Liên quan đến quy định miễn phí sách giáo khoa, một số đại biểu nêu quan điểm: nếu Nhà nước đã ban hành và cung cấp một bộ sách thống nhất thì việc quy định “miễn phí” cần được xem xét lại, tránh chồng chéo giữa chính sách và biện pháp thực hiện.
Thực tiễn cho thấy, tiến độ triển khai các bộ sách thời gian qua còn chậm, nguyên nhân chủ yếu là quy định pháp lý chưa rõ ràng. Do đó, khi đã xác định có một bộ sách thống nhất, cần quy định cụ thể trách nhiệm từng khâu – biên soạn, thẩm định, phê duyệt... để bảo đảm tính minh bạch, khả thi.
Đại biểu nêu rõ, nếu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là người thành lập hội đồng, lựa chọn thành viên và phê duyệt kết quả thì Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm cuối cùng. Hội đồng chỉ là cơ quan tư vấn, không thể chịu trách nhiệm chính... Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn mang tính chính trị trong quản lý giáo dục. Bộ sách giáo khoa là công cụ then chốt, nên phải có quy định dứt khoát, ràng buộc pháp lý đối với trách nhiệm của người đứng đầu.
Tán thành với chủ trương thống nhất một bộ sách giáo khoa, đại biểu Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) cũng cho biết: nhiều phụ huynh, giáo viên phản ánh việc mỗi địa phương, mỗi trường chọn một bộ sách riêng khiến học sinh chuyển trường gặp khó khăn, gây lãng phí và rối rắm.
Theo đại biểu, thống nhất một bộ sách là hợp lý, phù hợp thực tiễn; thế hệ trước đây cũng chỉ học một bộ sách duy nhất mà vẫn hiệu quả, tiết kiệm… “Cải cách giáo dục là cần thiết, nhưng cần đảm bảo tính ổn định, tránh thay đổi liên tục khiến học sinh, phụ huynh cảm giác bị “thử nghiệm”. Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần giải pháp dài hạn, căn cơ, bảo đảm mỗi lần cải cách đều mang tính bền vững”, đại biểu nhấn mạnh.
Góp ý tại phiên thảo luận, ĐBQH Thái Văn Thành (Nghệ An) đánh giá, dự thảo Luật lần này có nhiều điểm mới mang tính đột phá và nhân văn, như: hình thành hệ thống trường trung học nghề; mở rộng giáo dục bắt buộc đến hết THCS; bỏ kỳ thi, bằng tốt nghiệp THCS, giao hiệu trưởng cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình... "Việc thống nhất một bộ sách giáo khoa không chỉ đảm bảo cơ hội học tập bình đẳng, mà còn giúp quản lý, giảng dạy, chuyển trường của học sinh thuận lợi và đồng bộ", đại biểu nhấn mạnh.
Ở góc nhìn khác, tham gia ý kiến góp ý, nhiều ý kiến cũng đề nghị làm rõ cụm từ “thực hiện các giải pháp xã hội hóa phù hợp” để tránh hiểu nhầm cho phép biên soạn nhiều bộ sách... Theo đó, xã hội hóa có thể thực hiện ở khâu in ấn, phát hành hoặc tài liệu tham khảo nhưng phải giữ nguyên tính thống nhất của chương trình chính.
ĐBQH Thái Văn Thành (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: H.Phong
Đáng chú ý, một số ý kiến đề xuất thể chế hóa quy định từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, theo Nghị quyết 71-NQ/TW – hướng mở cho hội nhập quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực.
Liêm chính học thuật – nền tảng của giáo dục đại học hiện đại
Góp ý cho dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) nhấn mạnh cần hoàn thiện các khái niệm trong phần giải thích từ ngữ, tránh hiểu sai, thiếu thống nhất khi áp dụng. Đại biểu đề nghị bổ sung nội dung “phục vụ cộng đồng” vào định nghĩa hoạt động giáo dục đại học – một chức năng cốt lõi của triết lý giáo dục hiện đại, giúp sinh viên học qua thực tế, gắn kết xã hội và thể hiện trách nhiệm công dân.
Theo đó, hoạt động giáo dục đại học cần được hiểu là quá trình tạo lập, vận hành và kiểm soát chất lượng của cơ sở giáo dục, bao gồm đào tạo, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, phục vụ cộng đồng và chuyển giao tri thức.
ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Về liêm chính học thuật, đại biểu đề nghị định nghĩa toàn diện theo năm giá trị cốt lõi: trung thực, tôn trọng, công bằng, tin cậy và trách nhiệm, dựa trên khung quốc tế của Trung tâm Liêm chính Học thuật (ICAI)… Cách tiếp cận này giúp luật không chỉ dừng ở liệt kê hành vi bị cấm, mà thể hiện chuẩn mực đạo đức học thuật cần hướng tới – nền tảng cho văn hóa nghiên cứu và đào tạo minh bạch.
Cùng với đó, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cũng đề nghị, làm rõ khái niệm “lĩnh vực đào tạo” theo hướng linh hoạt, tích hợp, phù hợp với xu hướng giáo dục liên ngành, đa ngành hiện nay; đồng thời, bổ sung khái niệm “giảng viên đồng cơ hữu” để phản ánh thực tế hợp tác giảng dạy giữa các trường trong và ngoài nước.
Đối với Điều 7 về chiến lược phát triển giáo dục đại học, đại biểu kiến nghị bổ sung nội dung “đổi mới cơ chế quản trị đại học, nâng cao chất lượng và trách nhiệm giải trình”.
Tại Điều 34, đại biểu đề xuất khuyến khích các cơ sở giáo dục áp dụng tiêu chuẩn kiểm định khu vực và quốc tế uy tín như AUN-QA, ABET, AACSB, qua đó nâng cao uy tín, hội nhập và tạo cơ sở cho cơ chế ưu đãi của Nhà nước đối với các trường đạt chuẩn quốc tế.
Song song, các đại biểu nhấn mạnh phát triển nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong trường đại học. Cần có cơ chế khuyến khích liên kết “viện – trường – doanh nghiệp”, mở rộng hợp tác quốc tế, để đại học trở thành trung tâm tri thức và sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.
ĐBQH Trần Thị Thu Hằng (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Các đại biểu thống nhất, việc sửa đổi đồng bộ các luật trong lĩnh vực giáo dục là cơ hội quan trọng để hoàn thiện thể chế, bảo đảm tính thống nhất, khả thi và ổn định lâu dài của chính sách. Theo các ý kiến, một nền giáo dục hiện đại cần dựa trên ba trụ cột: Chương trình và học liệu thống nhất; Cơ chế quản trị minh bạch, tự chủ và trách nhiệm; Hệ giá trị liêm chính học thuật vững chắc.
Đó là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, và bảo đảm hội nhập bền vững trong kỷ nguyên tri thức toàn cầu.
Diệp Anh