Ngân sách nhà nước bảo đảm chi phí phá sản với một số trường hợp
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Phá sản (sửa đổi). Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Quốc hội đã thông qua Luật Phục hồi, phá sản với 425 đại biểu tán thành, chiếm 89,85% tổng số đại biểu Quốc hội. Luật gồm 88 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026, quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thủ tục phục hồi, phá sản; quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản.
Luật Phục hồi, phá sản được áp dụng khi giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; trường hợp Luật này không có quy định thì áp dụng quy định của pháp luật có liên quan. Quy định về thủ tục phục hồi, thủ tục phục hồi rút gọn của Luật này không áp dụng đối với tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm.
Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý, giải trình dự án Luật, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và chỉnh lý tên gọi của Luật là "Luật Phục hồi, phá sản" theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội.
Về trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm chi phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản (Điều 20), thực tiễn giải quyết việc phá sản tại các Tòa án nhân dân cho thấy chi phí phá sản trong trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm là không lớn. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 (Luật hiện hành) đã có quy định theo hướng không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn) đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 chưa quy định nguồn kinh phí để bảo đảm tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp miễn này dẫn đến điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản là không có kinh phí để chi trả chi phí phá sản.
Do đó, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi xác định nguồn chi trả chi phí phá sản trong các trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn), tại khoản 3 Điều 20 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ do ngân sách nhà nước bảo đảm đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn, cơ quan quản lý thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản (hoặc còn tài sản nhưng không thanh lý, thu hồi được hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tạm ứng chi phí phá sản, thanh toán chi phí phá sản). Tiền tạm ứng chí phí phá sản trong trường hợp này sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Hộ kinh doanh có doanh thu năm từ 500 triệu đồng trở xuống không phải chịu thuế giá trị gia tăng
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đã được Quốc hội thông qua với 421 đại biểu tán thành, chiếm 89,01% tổng số đại biểu Quốc hội.
Luật gồm 2 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026. Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 5 về đối tượng không chịu thuế theo hướng: "Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu. Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mua sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào".
Khoản 25 Điều 5 quy định đối tượng không chịu thuế gồm hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh có mức doanh thu năm từ 500 triệu đồng trở xuống; tài sản của tổ chức, cá nhân không kinh doanh, không phải là người nộp thuế giá trị gia tăng bán ra; hàng dự trữ quốc gia do cơ quan dự trữ quốc gia bán ra; các khoản thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí".
Luật bãi bỏ quy định cơ sở kinh doanh thuộc trường hợp hoàn thuế phải đáp ứng điều kiện người bán đã kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định đối với hóa đơn đã xuất cho cơ sở kinh doanh đề nghị hoàn thuế (điểm c khoản 9 Điều 15).
Trước đó, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu và ý kiến thẩm tra, Chính phủ đã cung cấp thêm thông tin về đánh giá tác động, trong đó đã có báo cáo về tỷ lệ hồ sơ hoàn thuế theo quy định hiện hành. Việc bãi bỏ quy định này góp phần rút ngắn thời gian hoàn thuế cho doanh nghiệp, đảm bảo đúng trách nhiệm và quyền lợi riêng rẽ của bên mua và bên bán. Việc hoàn thuế được thực hiện thống nhất theo quy định của Luật Quản lý thuế vừa được Quốc hội thông qua, đảm bảo hiệu quả, chặt chẽ.
Xử lý 20 điểm nghẽn “đã chín”, đã rõ của 9 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Cũng trong sáng 11/12, 424 đại biểu Quốc hội đã nhấn nút thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường (chiếm 89,64% tổng số đại biểu Quốc hội).
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, thời gian qua đã phát sinh một số vướng mắc, điểm nghẽn, nút thắt cần phải xử lý ngay để kịp thời tháo gỡ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý về nông nghiệp và môi trường. Việc tập trung tháo gỡ những "điểm nghẽn", "nút thắt" pháp lý phát sinh từ thực tiễn; kịp thời đề xuất xử lý vướng mắc, bất cập phát sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, đặc biệt là hướng đến mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và tăng trưởng "hai con số" trong thời gian tới gắn với việc xử lý các vấn đề về sắp xếp, tổ chức bộ máy, chính quyền địa phương 2 cấp là mục tiêu của việc xây dựng dự án Luật.
Trước ý kiến cho rằng phạm vi điều chỉnh của Luật là khá rộng; đề nghị cân nhắc áp dụng Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật thay vì sửa đổi, bổ sung Luật. Về vấn đề này, Chính phủ báo cáo, làm rõ như sau: Dự án Luật thực hiện sửa đổi, bổ sung 15 luật nhưng nội dung sửa đổi, bổ sung 15 luật chỉ tập trung điều chỉnh, khu trú ở 3 nhóm vấn đề chính (sắp xếp tổ chức bộ máy; cải cách thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh; điểm nghẽn), trong đó tập trung chủ yếu về vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy có kết hợp xử lý 20 điểm nghẽn đã chín, đã rõ của 9 luật để đảm bảo xử lý ngay trong năm 2025. Nếu tách việc xử lý 20 điểm nghẽn để thực hiện theo Nghị quyết số 206/2025/QH15 sẽ thành 9 Nghị quyết về xử lý điểm nghẽn là không phù hợp.
Về việc áp dụng cơ chế tại Nghị quyết số 206/2025/QH15, cơ quan chủ trì soạn thảo đã xác định có 2 luật có vướng mắc cần xử lý và đã trình Chính phủ ban hành 2 Nghị quyết tháo gỡ vướng mắc do quy định của pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường theo quy định tại Nghị quyết số 206/2025/QH15, gồm: Nghị quyết số 66.3/2025/NQ-CP của Chính phủ về tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh; Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP của Chính phủ về ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024. Mặt khác, việc xử lý các vướng mắc, điểm nghẽn tại dự án Luật sửa đổi, bổ sung 15 luật là thực hiện theo hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều của Nghị quyết số 206/2025/QH15.
Chu Thanh Vân (TTXVN)