Luật Cán bộ, công chức sửa đổi gồm 7 Chương, 45 Điều, bổ sung và điều chỉnh nhiều nội dung nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách chế độ công vụ trong giai đoạn mới.
Trong đó, quy định về tuyển dụng công chức là một điểm nhấn được dư luận và các cơ quan quản lý nhân sự đặc biệt quan tâm.
Luật Cán bộ, công chức sửa đổi thông tin về nguyên tắc tuyển dụng công chức. Ảnh minh họa
Thông tin về tuyển dụng công chức
Luật bổ sung nguyên tắc tuyển dụng người được tuyển chọn phải đáp ứng ngay yêu cầu của vị trí việc làm; thực hiện tuyển dụng đối với vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý, vị trí việc làm chuyên môn, nghiệp vụ xếp ngạch chuyên viên trở lên; tiếp nhận đối với những người có tài năng, kinh nghiệm từ khu vực ngoài công lập, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp.
Đồng thời, Luật vừa được thông qua cũng bỏ chế độ tập sự đối với người trúng tuyển, trường hợp đang thực hiện chế độ tập sự thì được xếp vào ngạch công chức tương ứng với vị trí việc làm tuyển dụng.
Quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức thống nhất ở cấp quốc gia để thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong tuyển dụng, quản lý công chức cũng được lược bỏ.
Liên thông cán bộ, công chức cấp xã với cấp tỉnh
Luật không quy định cơ chế quản lý riêng đối với cán bộ, công chức cấp xã và cán bộ, công chức cấp tỉnh.
Cán bộ, công chức cấp xã theo quy định của Luật hiện hành được chuyển thành cán bộ, công chức theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức sửa đổi nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện về trình độ đào tạo mà không yêu cầu về thời gian công tác, tiêu chuẩn, điều kiện của ngạch công chức.
Quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm
Luật bổ sung nguyên tắc trong việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và kết quả, hiệu quả thực thi nhiệm vụ theo yêu cầu vị trí việc làm.
Đồng thời, quy định khái niệm vị trí việc làm; phân loại vị trí việc làm công chức được phân thành 3 nhóm gồm: Vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý; Vị trí việc làm chuyên môn, nghiệp vụ và vị trí việc làm hỗ trợ, phục vụ; Bỏ quy định thi nâng ngạch, thay vào đó là cơ chế bố trí vào vị trí việc làm nào thì xếp ở ngạch công chức tương ứng.
Đồng thời, luật cũng bổ sung quy định chuyển tiếp thời gian hoàn thành việc bố trí vào vị trí việc làm và xếp ngạch tương ứng đối với công chức đã được tuyển dụng trước ngày Luật này có hiệu lực.
Chế độ đãi ngộ người có tài năng
Luật quy định chính sách đối với 2 nhóm đối tượng gồm: Nhóm đối tượng thu hút vào khu vực công áp dụng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao và nhóm đối tượng là người có tài năng trong hoạt động công vụ; bổ sung khái niệm người có tài năng trong hoạt động công vụ.
Đặc biệt, bổ sung trách nhiệm của Nhà nước trong việc bố trí ngân sách hằng năm để thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ người có tài năng.
Cho phép ký hợp đồng thực hiện một số nhiệm vụ của công chức
Luật quy định cơ quan quản lý công chức quyết định ký hợp đồng đối với doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc, luật gia, luật sư giỏi, chuyên gia, nhà khoa học thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ của vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý.
Nhân lực chất lượng cao để thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ cũng được cơ quan này ký hợp đồng.
Ngân sách nhà nước bảo đảm việc ký kết hợp đồng (ngoài quỹ lương và ngoài kinh phí khoán chi hành chính), đồng thời giao Chính phủ quy định cụ thể bảo đảm để các cơ quan chủ động trong quá trình triển khai.
Sàng lọc cán bộ, công chức
Luật quy định nguyên tắc, thẩm quyền, nội dung, phương thức đánh giá, xếp loại chất lượng công chức trên cơ sở theo dõi, đánh giá thường xuyên, liên tục, đa chiều, định lượng bằng các tiêu chí cụ thể gắn với tiến độ, số lượng, chất lượng của kết quả, sản phẩm theo vị trí việc làm.
Kết quả đánh giá được sử dụng để thực hiện khen thưởng, chế độ thu nhập tăng thêm, tiền thưởng hoặc xem xét bố trí vào vị trí việc làm thấp hơn hoặc cho thôi việc để sàng lọc người không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ra khỏi bộ máy; đồng thời, quy định cụ thể trách nhiệm của người đứng đầu trong việc quản lý, đánh giá và sử dụng công chức đúng năng lực, đúng vị trí việc làm.
Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của cán bộ, công chức
Luật đã quy định cụ thể về đạo đức, chuẩn mực hành vi của cán bộ, công chức, phù hợp với chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong thực thi công vụ, đáp ứng yêu cầu về một nền hành chính liêm chính, minh bạch.
Bên cạnh đó, Luật bổ sung quy định được xem xét loại trừ, miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm nếu có sai sót, thiệt hại khi thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo theo quy định của Đảng và pháp luật hoặc đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, không vụ lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng vẫn gây ra thiệt hại vì lý do khách quan để thể chế hóa theo đúng tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Luật đã lược bỏ hình thức kỷ luật giáng chức đối với công chức lãnh đạo, quản lý; không tiếp tục quy định hạ bậc lương là một hình thức xử lý kỷ luật bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa quy định kỷ luật Đảng và kỷ luật hành chính.
Ngoài ra, Luật bổ sung nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong đánh giá công chức; bổ sung nội dung xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức trong quản lý cán bộ, công chức.
Lê An