LỄ TUYÊN DƯƠNG HỌC SINH, SINH VIÊN, THANH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ XUẤT SẮC, TIÊU BIỂU NĂM 2025
Qua 12 kỳ tổ chức (2013 - 2025), Lễ Tuyên dương đã vinh danh hơn 2.000 học sinh, sinh viên, thanh niên ưu tú thuộc 53 dân tộc trên cả nước, góp phần tôn vinh truyền thống hiếu học, bồi dưỡng nhân tài và khơi dậy khát vọng cống hiến của trí thức trẻ vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Năm 2025 là năm thứ 12 Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) phối hợp với Bộ GD-ĐT và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) tổ chức Lễ Tuyên dương 150 học sinh, sinh viên, thanh niên dân tộc thiểu số xuất sắc, tiêu biểu với chuỗi hoạt động tại Hà Nội:
Chiều 26/12: Diễn đàn “Câu chuyện số từ những bản làng”.
Sáng 27/12: Lễ báo công dâng Bác và ghi sổ vàng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
20h00 ngày 27/12: Lễ Tuyên dương chính thức tại Nhà hát Hồ Gươm, truyền hình trực tiếp trên VTV5.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Tân Sơn (Phú Thọ), cả tuổi thơ của Hà Thị Ánh Tuyết (sinh năm 2002, dân tộc Mường) gắn liền với hình ảnh lam lũ, tảo tần của mẹ. Bố mất sớm, mẹ Tuyết phải gánh vác gia đình bằng những công việc nặng nhọc nhưng thu nhập vẫn bấp bênh.
“Tất cả số tiền ít ỏi mẹ kiếm được đều dành dụm để em được đi học”, Tuyết nhớ lại.
Khi lớn hơn, Tuyết nhận ra thực tế ấy không chỉ tồn tại trong gia đình mình mà còn là câu chuyện chung của nhiều hộ dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Một gia đình có thể phải bán đi vài con bò - vốn là cả gia tài - để nuôi một người con học đại học. “Chính sự kỳ vọng của mẹ, nỗi vất vả của đồng bào khiến em tin rằng học tập là con đường phù hợp nhất với mình”, Tuyết nói.
Hà Thị Ánh Tuyết là người dân tộc Mường. Ảnh: NVCC
Tuyết từng học 3 năm tại Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc trước khi vào Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương. Học tập tại những ngôi trường này, cô gái Mường càng hiểu sâu sắc hơn về sự đa dạng của 54 dân tộc anh em và cả những bất cập kéo dài trong giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Vì thế, khi được cô giáo chủ nhiệm giới thiệu về Học viện Dân tộc, nữ sinh quyết định thi vào ngành Kinh tế Giáo dục vùng dân tộc thiểu số. Trúng tuyển với điểm số 27,75, Tuyết trở thành một trong những sinh viên khóa đầu tiên của Học viện.
Khi được tiếp xúc với ngành, Tuyết nghiêm túc đào sâu các vấn đề liên quan đến kinh tế và giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, tạo sinh kế, thu hẹp khoảng cách phát triển... Với mỗi vấn đề cụ thể, nữ sinh người Mường đều kết nối kiến thức với các thực trạng vốn có của đời sống vùng cao.
Điều đó khiến Tuyết nhận ra những nghịch lý về giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số. Trong đó, điểm nghẽn lớn nhất là sự đứt gãy giữa đầu tư giáo dục và thị trường lao động tại chỗ.
“Đối với gia đình nghèo ở vùng sâu vùng xa, việc gửi một đứa trẻ đến trường không chỉ là vấn đề học phí - thường đã được miễn giảm. Chi phí còn là mất đi nguồn lực lao động, bởi một đứa trẻ 12-13 tuổi ở bản làng đã có thể phụ giúp chăn nuôi, làm nương rẫy”, Tuyết nói.
Ánh Tuyết là thủ khoa tại Học viện Dân tộc. Ảnh: NVCC
Ngoài ra, việc học xa nhà cũng phát sinh nhiều chi phí khiến ngân sách gia đình khó gánh nổi. Khi cái bụng đói vẫn là nỗi lo trước mắt, việc đầu tư cho tương lai mơ hồ trong 10 năm sau trở thành lựa chọn không mấy hấp dẫn.
Chưa kể, sau khi tốt nghiệp, các em khó tìm được việc làm tại địa phương do kinh tế còn chậm phát triển hoặc kiến thức thiếu tính ứng dụng vào thực tế sản xuất tại địa phương.
Điều này dẫn đến hệ quả không mấy tích cực: khi cộng đồng thấy những người đi học về vẫn thất nghiệp hoặc làm nương rẫy “như người không học”, họ sẽ nảy sinh tâm lý “học cũng chẳng để làm gì”.
Để nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, theo Tuyết, cần bắt đầu thay đổi từ chính tư duy của người dân. Tuy nhiên, đó vẫn là một quá trình “dài hơi”, bởi khi bụng đói, con chữ trở nên xa xỉ, rất nhiều người không muốn và không đủ điều kiện để cho con cái đi học.
Ngoài ra, giáo dục cần gắn chặt với sinh kế và những lợi ích sát sườn như nông nghiệp công nghệ cao, du lịch cộng đồng, chuyển đổi số, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc tại chỗ.
“Khi ấy, giáo dục mới thực sự trở thành động cơ thoát nghèo, chứ không phải một hệ thống tách rời”, Tuyết khẳng định.
Tuyết tích cực tham gia hoạt động đoàn. Ảnh: NVCC
Trong quãng thời gian theo học tại Học viện Dân tộc, nữ sinh thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Trong đó, Tuyết từng là chủ nhiệm đề tài và giành giải Nhì nghiên cứu khoa học cấp trường về thực trạng bỏ học ở trẻ em dân tộc thiểu số tại thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Không chỉ học tốt, Tuyết còn là gương mặt năng động trong các hoạt động phong trào, từng là Bí thư lâm thời Chi đoàn sinh viên K1, ủy viên Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Học viện Dân tộc.
Nỗ lực học tập, nghiên cứu, tham gia các hoạt động đoàn thể, nhưng có những thời điểm, Tuyết thừa nhận mình như “chạm đến giới hạn”. Mỗi lần như vậy, hình ảnh về sự cố gắng và hy sinh của mẹ lại trở thành động lực để em tiếp tục phấn đấu.
Lợi thế lớn nhất bản thân có được, theo Tuyết, là việc được lớn lên trong cộng đồng người Mường và có sự giao lưu với nhiều dân tộc anh em. Điều này giúp Tuyết có cái nhìn sâu sắc, đa chiều khi tiếp cận các môn học và cách nhìn nhận cuộc sống.
Nhờ sự nỗ lực, Ánh Tuyết trở thành thủ khoa đầu ra ngành Kinh tế Giáo dục vùng dân tộc thiểu số, đồng thời là một trong 150 học sinh, sinh viên, thanh niên dân tộc thiểu số xuất sắc tiêu biểu được Bộ Dân tộc và Tôn giáo tuyên dương năm 2025.
Với Tuyết, danh hiệu thủ khoa “vừa là vinh dự, vừa là áp lực”. “Thành tích hôm nay chỉ là một cột mốc. Hành trình thực sự là khi em có thể dùng kiến thức của mình để giúp nhiều em nhỏ khác trở thành ‘thủ khoa’ của chính cuộc đời mình và mang lại những điều tốt đẹp cho quê hương, đồng bào”, Tuyết nói.
Cô gái người Mường cũng cho rằng xuất phát điểm thấp không phải là rào cản.
“Sức bật từ nghịch cảnh, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và trải nghiệm sống chính là 'chất riêng' của mình khi ra ngoài biển lớn. Do đó không nên định nghĩa mình bằng vạch xuất phát. Hãy định nghĩa mình bằng quãng đường đã đi được”, Tuyết chia sẻ.
Thúy Nga